Tóm tắt nội dung bài viết
An Dương Vương
An Dương Vương
安陽王 Vua Việt Nam (chi tiết…)
Tượng An Dương Vương ở quận 5, thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang đọc: An Dương Vương
Vua Âu Lạc Tại vị 257 TCN – 208 TCN / 208 TCN – 179 TCN1 Tiền nhiệm Sáng lập triều đại Kế nhiệm Triều đại sụp đổ Thông tin chung Hậu duệ Hậu duệ Mỵ Châu Tên đầy đủ Thục Phán Thụy hiệu An Dương Vương Thân phụ Thục Chế (theo truyền thuyết)2 Sinh không rõ Mất 208 TCN / 179 TCN1
An Dương Vương (chữ Hán: 安陽王), tên thật là Thục Phán (蜀泮), là một vị vua đã lập nên đất nước Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất cai trị nhà nước này. Âu Lạc là nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang đầu tiên của các vua Hùng.
Niên đại trị vì của An Dương Vương được những tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng thời hạn ông làm vua lê dài 50 năm, từ 257 TCN đến 208 TCN3 .Các sử gia tân tiến địa thế căn cứ vào Sử ký Tư Mã Thiên là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc sống sót từ khoảng chừng 208 TCN đến 179 TCN, tức là gần 30 năm4.
Nguồn gốc
Người Âu Việt
Cùng sống sót ở vùng Bắc Bộ Nước Ta và phía Tây tỉnh Quảng Tây ( Trung Quốc ) vào thời kỳ Hồng Bàng, có những bộ tộc Âu Việt sống xen kẽ với người Lạc Việt. Hai bộ lạc này từ lâu đã có quan hệ thân mật với nhau. Nhà nước Văn Lang do Hùng Vương đứng đầu quản lý Lạc Việt. Thục Phán, người Âu Việt, là vua người Âu Việt đã vượt mặt Hùng Vương vua nước Văn Lang đổi quốc hiệu thành Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương, đóng đô tại Phong Khê ( nay là vùng Cổ Loa, huyện Đông Anh – TP. Hà Nội ). Ca dao :
-
-
-
- Ai về qua huyện Đông Anh
-
- Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục vương…
-
Con cháu nước Thục ở Trung Hoa
Có giả thuyết cho rằng mái ấm gia đình Thục Phán là hậu duệ của những vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc, chạy về phía Nam để tránh bạo loạn vào cuối thời Chiến Quốc và khi nhà Tần nổi lên. Thục Phán đã đến vùng chủ quyền lãnh thổ của người Âu Việt ( nay là phía Tây và Nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc và hướng đông bắc Nước Ta ) gây dựng lực lượng quân sự chiến lược tại đây .Sách ” Ngược dòng lịch sử vẻ vang ” của GS Trần Quốc Vượng cho rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có thời cơ Phục hồi nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành vương quốc nằm ở phía bắc nước Văn Lang của họ Hồng Bàng .Tuy nhiên, giả thuyết này bị nhiều nhà nghiên cứu hoài nghi. Khoảng cách từ Tứ Xuyên tới miền Bắc Nước Ta là khoảng chừng 3.000 km *, và khoảng chừng thời hạn từ khi nước Thục bị Tần diệt ( 316 TCN ) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Nước Ta ( 257 TCN ) là gần 60 năm. Trong thời hạn ngắn như vậy, khó có chuyện dòng dõi vua Thục hoàn toàn có thể di cư xa tới 3.000 km, vượt qua nhiều đồi núi hiểm trở để tới lập quốc ở miền Bắc Nước Ta.
Nghi vấn
Mỗi giả thuyết nêu trên đều có những chỗ đáng ngờ và chỗ đáng ngờ chung là: Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Bách Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một vấn đề nghi vấn, không rõ đây có phải tên họ do đời sau gán cho An Dương Vương hay không. Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc5 mà không nhắc tới An Dương Vương hay họ Thục.
Tựu trung, cả hai thuyết đều chưa được chứng tỏ bằng những di tích lịch sử khảo cổ hoặc văn tự ghi chép lại. Song hoàn toàn có thể chứng minh và khẳng định : An Dương Vương là chỉ huy người Âu Việt đóng ở phía bắc nước Văn Lang. Sau một thời hạn, ông đã chỉ huy người Âu Việt tàn phá nước Văn Lang, thống nhất cả hai nhóm Âu Việt và Lạc Việt dưới 1 vương quốc, đây chính là tổ tiên của người Kinh ở Nước Ta thời nay.
Lịch sử và truyền thuyết
Lập quốc
Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đời cháu Thục Vương là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Hùng Vương nói: Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc6 Bộ máy nhà nước của nước Âu Lạc không có nhiều thay đổi so với bộ máy nhà nước thời Văn Lang. Đứng đầu trong bộ máy hành chính ở trung ương vẫn là Vua và Lạc Hầu Lạc Tướng. Đứng đầu các bộ vẫn là Lạc Tướng. Đứng đầu các chiềng, chạ vẫn là Bồ chính. Tuy nhiên, ở thời An Dương Vương quyền hành của nhà nước cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc cai trị đất nước.
Chống quân Tần
Cùng thời kỳ này, bên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng sáp nhập 6 nước sau nhiều năm hỗn chiến thời Chiến Quốc. Ông liên tục tham vọng lấn chiếm Bách Việt, vùng đất đai của những bộ tộc Việt ở phía nam Trung Quốc và bắc Nước Ta thời nay. Đạo quân xâm lược nhà Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc. Khi vào chủ quyền lãnh thổ phía Đông Bắc nước Âu Lạc, quân Tần gặp phải cuộc kháng chiến trường kì của người Việt do Thục Phán chỉ huy . Theo cuốn Lịch sử Nước Ta ( Viện sử học, 1991 ) : Năm 218 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhất phải đào con kênh nối sông Lương ( vùng An Hưng, Trung Quốc ngày này ) để chở lương thực. Nhờ vậy, Đồ Thư thống lĩnh đã vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Thục Phán được những Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, nhân dân Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào thực trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức, vì thiếu lương, thì quân dân Việt, do Thục Phán chỉ huy, mới khởi đầu xuất trận. Đồ Thư đã phải bỏ mạng trong trận này. Mất chủ tướng, quân Tần hoang mang lo lắng mở đường tháo chạy về nước. Sau gần 10 năm kháng chiến, nhân dân Âu Việt – Lạc Việt giành được độc lập. Thục Phán củng cố và thiết kế xây dựng lại đất nước7 .
Còn theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 2 thì: đạo thứ nhất của quân Tần đã đi bằng thuyền nhỏ theo sông Tả Giang, từ Ninh Minh lên Thủy Khẩu, Tà Lùng đến Cao Bình. Thục Phán sai tướng Lý Bính phục quân ở đoạn Hát Gia, khi quân Tần tiến đến chỗ này, bị quân Thục thả gỗ, ném đá, phóng lao, bắn tên xuống thuyền làm cho giặc bị thương, bị chết vô số kể. Lại nghe tin vua Tần Thủy Hoàng đã chết, tướng Đồ Thư hoảng hốt, bèn cho rút quân. Ở khu vực Hát Gia hiện nay, người dân đã tình cờ phát hiện ra mũi tên đồng có một ngạnh đã han rỉ ở bãi cát Soóc Luông hay một số kim khí ở Soóc Lẩc. Tuy nhiên, để tìm thấy hiện vật minh chứng về các sự kiện lịch sử liên quan đến Thục Phán ở Cao Bằng phải tiến hành các bước nghiệp vụ khảo sát thực địa sâu hơn.
Xây thành Cổ Loa
Sau thắng lợi trước quân Tần, An Dương Vương quyết định hành động giao cho tướng Cao Lỗ xây thành Cổ Loa nhằm mục đích củng cố thêm năng lực phòng thủ quân sự chiến lược. Tục truyền rằng thành xây nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. An Dương Vương cũng tăng trưởng thuỷ binh và cho sản xuất nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự chiến lược vững chãi cho Cổ Loa .
Di tích của thành Cổ Loa vẫn còn lưu lại cho đến nay, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía đông bắc. Đền thờ An Dương Vương nằm ở trung tâm di tích này. Các nghiên cứu khảo cổ học tại đây vẫn tiếp tục làm sáng tỏ các thời kỳ lịch sử mà thành đã trải qua.
Mắc kế thông gia và sụp đổ
Ít lâu sau, Triệu Đà từ Q. Nam Hải ( Quảng Đông giờ đây ) sang đánh Âu Lạc. Nhờ vào sẵn sàng chuẩn bị quân sự chiến lược tốt, An Dương Vương đã chống cự được hiệu suất cao. Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí hiểm quân sự chiến lược của An Dương Vương trải qua con trai, Triệu Đà đã thành công xuất sắc trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương .
Về năm mất của triều đại An Dương Vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần sách sử Việt Nam (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Việt sử Tiêu án) đều chép là An Dương Vương mất nước năm 208 TCN. Sách giáo khoa của Việt Nam căn cứ vào Sử Ký của Tư Mã Thiên ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ như vậy vì Sử Ký chép là Triệu Đà diệt nước Âu Lạc “Sau khi Lã Hậu chết”, mà Lã Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước Âu Lạc mất khoảng năm 179 TCN. Truyền thuyết An Dương Vương, Nỏ Thần, và con trai Triệu Đà là Trọng Thuỷ ở rể nước Việt có nhiều chỗ không hợp với Sử Ký của Tư Mã Thiên, mặc dầu Sử Ký là nguồn tư liệu sớm nhất mà các nhà viết sử Việt Nam có được để tham khảo.
Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép dẫn theo sách Thái bình hoàn vũ ký, phần Nam Việt chí của Nhạc Sử nhà Tống: An Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương Vương có Cao Thông (Cao Lỗ) giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết chết quân [Nam] Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn. Triệu Đà biết rõ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con là Trọng Thủy sang làm tin, xin hòa hảo với nhau. Về sau, An Dương Vương đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương Vương có người con gái là Mỵ Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải lòng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mỵ Châu đòi xem nỏ thần, Mỵ Châu đem cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai người ruổi về báo tin cho Triệu Đà. Triệu Đà lại đem quân sang đánh úp. Khi quân Triệu kéo đến, An Dương Vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng rồi! Quân Thục chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục. Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.
Thẻ ngọc “An Dương hành bảo”
Thẻ ngọc ” An Dương hành bảo ” được tìm thấy ở thành phố Quảng Châu Trung Quốc thuộc chủ quyền lãnh thổ nước Nam Việt thời cổ. Thẻ ngọc có hình dạng gần chữ nhật, bốn góc thẻ khắc bốn chữ ” 安陽行寶 ” 8 ( An Dương hành bảo ), khổ chữ to hơn khổ chữ phía trong mặt thẻ gồm 124 chữ lối cổ trựu. Bản khắc toàn văn sáu mươi ( Giáp Tý ), ( 60 chữ can chi ). Xung quanh trang trí khắc đường vằn sóng lượn. Do bị chôn lâu ngày dưới đất nên màu vàng hơi hung hung đỏ. Mặt trái thẻ trang trí đường cong hình móc câu. Nét chạm trên thẻ ngọc An Dương thô. 9 Nhà nghiên cứu và điều tra ” Sở giản ” Dư Duy Cương ở thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc cho rằng : ” Ngọc bảo An Dương này là của An Dương cổ đại Nước Ta. An Dương hành bảo có lỗ đeo, đây là loại ngọc phiến người xưa đeo làm vật báu hộ thân, trừ tà để được an lành “. Thẻ ngọc này đào được ở phía Đông Nam cách thành phố Quảng Châu Trung Quốc 18 km ở trên hạ lưu sông Việt Giang do một nông dân khi cuốc đất đào được ở sườn núi năm 1932. Những thẻ ngọc đào được ở Quảng Châu Trung Quốc khoảng chừng 200 thẻ, trong đó có thẻ ngọc khắc chữ An Dương. Khi Nam Việt vượt mặt Âu Lạc, những bảo vật của Âu Lạc là chiến lợi phẩm nên mới đào được ở Quảng Châu Trung Quốc. 10
Xem thêm
- Âu Lạc
- Thục Chế
- Văn Lang
- Hùng Vương
- Nam Việt
- Nhà Triệu
- Cổ Thục
- Cao Lỗ
- Mỵ Châu
- Trọng Thủy
- Nỏ liên châu
- Rùa thần Kim Quy
- Lý Ông Trọng
- Triệu Đà
- Cổ Loa
- Đền Cuông
- Nam Bình (kinh đô)
- Thành Bản Phủ (Cao Bằng)
- Âu Việt
- Lạc Việt
- Người Tày
- Chiến tranh Tần-Việt
Tham khảo
- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp
- Viện Sử học (1988), Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Đại Việt sử ký toàn thư, quyển I
-
^
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản. Giấy phép xuất bản số 3650/BTT/PHNT ngày 2/8/1971. Bản điện tử do talawas thực hiện
Chú thích
- ^ a ă Giả thiết thứ nhất theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, giả thiết thứ hai theo Sử ký Tư Mã Thiên. Xem nguồn đã dẫn .
- ^
“ Thành Bản Phủ ở Cao Bình ”. Trang tin Ban quản trị di tích lịch sử Khu tưởng niệm những Vua Nhà Mạc. Ngày 27 tháng 2 năm 2012. Thục Chế làm vua được 60 năm thì mất, con là Thục Phán mới 10 tuổi, thay cha lên làm vua, cháu Thục Chế là Thục Mô giúp Thục Phán nhiếp chính .
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, quyển I
- ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 129-130
- ^
Sử ký Tư Mã Thiên, Quyển 113, mục Nam Việt liệt truyện, chép: “且南方卑溼,蠻夷中閒,其東閩越千人眾號稱王,其西甌駱裸國亦稱王。” (Thả nam phương ti thấp, Man Di trung gian, kì đông Mân Việt thiên nhân chúng hiệu xưng Vương, kì tây Âu Lạc khỏa quốc diệc xưng Vương)
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển 1, Kỷ nhà Thục
- ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 125-130
- ^
Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đại Việt Nam
- ^ Theo nghiên cứu và phân tích của nhà nghiên cứu ” Sở giản ” Dư Duy Cương ở Trường Sa tỉnh Hồ Nam
- ^
Trịnh Quang Vũ ( ngày 16 tháng 12 năm 2011 ). “ CỔ NGỌC TRANG SỨC – NGỌC TỶ VIỆT NAM 5000 NĂM ”. Hội Mỹ thuật Nước Ta .
(Nguồn: Wikipedia)
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Hỏi Đáp
Để lại một bình luận