Nong nào phải là nong nia
Đến Huế mà hỏi Nong, Truồi ở đâu, bạn sẽ được chỉ tay về phía nam kèm theo câu giới thiệu: “Nong lên thì Truồi cũng lên”. Nong, Truồi là những vùng quê văn vật của đất Thừa Thiên, nay thuộc huyện Phú Lộc, cách thành phố Huế khoảng 30km, nằm ngang giữa con đường thiên lý xưa mà nay là quốc lộ 1. Đi trên con đường này bạn sẽ qua cầu Nong, sông Nong, chợ Nong, ga Nong…
” Nong lên thì Truồi cũng lên ” là cách ví von của dân gian, ý niệm rằng ” anh thách thì tui cũng thách lại anh “, xuất phát từ trường hợp năm xưa khi sản phẩm & hàng hóa chợ Nong lên giá thì chợ Truồi ( cách khoảng chừng 7 km ) cũng lên. Nhưng từ đâu lại có cái tên Nong và nó có ý nghĩa gì ?Có phải là cái nong ( nia ) đựng lúa ? Làng nào làm nông mà chẳng có nong nia. Làng Nong cũng không có nghề đan nong. Trong sách Tiếng Huế, người Huế, văn hóa truyền thống Huế ( NXB Văn Học 2005 ), nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đưa ra giả thuyết tên Nong hoàn toàn có thể xuất phát từ chữ tnoong ( cái cót đựng lúa ) trong tiếng Pa Cô, một sắc tộc thiểu số từng cư trú tại vùng đồng bằng này từ thời Champa quay trở lại trước .Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Trần Nguyễn Khánh Phong, người có nhiều năm điều tra và nghiên cứu về văn hóa truyền thống dân gian Tà Ôi, Pa Cô cho biết tiếng Pa Cô, Tà Ôi đều gọi cái cót đựng lúa là ” chăt “. Cùng hướng giả thuyết này, nhà nghiên cứu Võ Xuân Trang lại cho rằng Nong hoàn toàn có thể bắt nguồn từ ” pnang ” trong tiếng Pa Cô, có nghĩa là ” cau ” ( theo Xưa và Nay 10-2001 ). Nhưng Nong lâu nay chưa hề là vùng chuyên trồng cau .Tìm trong sách Ô châu cận lục, cuốn dư địa chí viết về dải đất từ Quảng Bình đến bắc Quảng Nam vào đầu thế kỷ 16, dưới thời Lê – Mạc làng Nong có tên là Minh Nông, sau đổi thành An Nông .Nhà điều tra và nghiên cứu Trần Đại Vinh cho biết do kỵ húy chữ Minh trong thụy hiệu của chúa Nguyễn Phúc Chu cho nên vì thế đổi thành An Nông. Sách Đại Nam nhất thống chí, cuốn địa chí nước Đại Nam được biên soạn dưới triều Nguyễn vào cuối thế kỷ 19 – đầu 20 đã ghi chép nhiều về làng An Nông và tổng An Nông ( gồm có vùng Nong – Truồi lúc bấy giờ ) .Làng An Nông có sông An Nông, cầu An Nông, bến đò An Nông … Như vậy, theo ông Vinh, chữ Nong là cách nói chệch âm từ chữ Nông mà ra. An Nong chính là An Nông, một vùng quê nông nghiệp an bình từ thuở xưa cho đến tận giờ đây .Trường học mang tên An Nong – Ảnh M. TỰ
Núi Truồi ai đắp mà cao…
” Núi Truồi ai đắp mà cao / Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu “. Câu ca dao nổi tiếng ấy đã lưu hành khắp nước Việt, từ khi xứ Huế còn là kinh đô. Sông Gianh ở Quảng Bình thì ai cũng biết, còn núi Truồi thì ở đâu ?Núi Truồi nằm ở ” Xứ Truồi ngọt mít thơm dâu / Anh đi làm rể ở lâu không về “. Xứ Truồi, cái tên nghe rất lạ ấy nằm ở phía nam xứ Huế. Từ thành phố Huế đi theo quốc lộ 1 về phía nam, đi qua Nong khoảng chừng 7 km bạn sẽ gặp cầu Truồi, sông Truồi, cạnh đó là chợ Truồi, ga Truồi, nhìn lên phía tây sẽ thấy một ngọn núi cao, đó là núi Truồi thuộc dãy núi Bạch Mã – Hải Vân .Truồi không phải là làng mà là xứ. Xứ Truồi là vùng đất rộng bao quanh con sông Truồi với hơn 20 làng lớn nhỏ, nay thuộc hai xã Lộc An và Lộc Điền, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. ” Xứ Truồi ruộng cả đồng sâu / muốn ăn cơm trắng làm dâu xứ Truồi “, nổi tiếng với những sản vật : dâu Truồi, mít Truồi, chè Truồi …Danh thần Đào Duy Từ đã đến lập phủ để sống ( tại làng Bàn Môn ) khi làm quan dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Phía đầu nguồn sông Truồi, từng có hành cung để những vua Nguyễn đến đây nghỉ ngơi, săn bắn. Cũng vùng đất này đã sinh ra những quan thượng thư triều Nguyễn là Trần Đình Túc, Lê Thanh Đàm, nghị viên Viện dân biểu Trung Kỳ Hoàng Đức Trạch …
Một vùng đất trù phú và văn vật dày dặn như thế, nhân tài kiệt hiệt như thế nhưng lại mang cái tên nghe vừa nôm na, vừa trúc trắc. Các sách sử và địa chí của triều Nguyễn, và trước đó cả Ô châu cận lục, Phủ biên tạp lục đều không ghi một chữ “Truồi” nào cả. Vậy thì Truồi từ đâu mà ra?
Nôm, Chăm, Cơ Tu, Tà Ôi, Pa Cô, Bru-Vân Kiều?
Truồi, chắc như đinh không phải là từ Hán Việt, vì trong kho từ Việt gốc Hán không có từ này. Vậy thì Truồi có phải là chữ Nôm vì nghe có vẻ như nôm na ; là từ của Chăm – gia chủ của vùng đất châu Rý ( Lý ) này một thuở ; hay là ngôn từ của những sắc tộc thiểu số miền tây Thừa Thiên – những người từng cư trú ở vùng đồng bằng này từ thời Champa trở lại trước ?Nhà điều tra và nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai cho biết trong từ điển Chăm – Việt không có từ nào là ” truồi “. Chúng tôi tìm trong Đại từ điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính không thấy, nhưng thật suôn sẻ đã tìm thấy chữ Truồi trong sách Bảng tra chữ Nôm của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 1976 và sách Giúp đọc Nôm và Hán – Việt của linh mục Anthony Trần Văn Kiệm, NXB Thuận Hóa 1999. Tuy nhiên, cả hai từ điển này chỉ lý giải : ” làng Truồi, tên làng gần Huế “. Nếu tên Truồi là chữ nôm thì có nghĩa là gì ? Không từ điển nào giải nghĩa cả .Tôi tìm gặp PGS.TS Trần Văn Sáng ở khoa ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Thành Phố Đà Nẵng, tác giả của luận án tiến sỹ ” Địa danh có nguồn gốc ngôn từ dân tộc thiểu số ở tây Thừa Thiên Huế ” năm 2013 .tiến sỹ Sáng cũng cho biết Truồi là địa điểm có nguồn gốc từ ngôn từ những dân tộc thiểu số thuộc nhóm Katuics, thuộc chi ngôn từ Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á. Đó là những dân tộc thiểu số hiện đang cư trú ở miền núi phía tây Thừa Thiên Huế : Cơ Tu, Tà Ôi – Pa Cô, Bru-Vân Kiều .Các sắc tộc này đã từng cư trú ở vùng đồng bằng này từ thời Champa ( xen cư với người Chăm ) và trở lại trước đó, trước khi người Kinh từ Đại Việt vào tiếp quản hai châu Ô, Rí. Theo ông Sáng, trong tiếng Bru-Vân Kiều có từ ” Ntruôi ” ( đọc là Ầng Truôi ) nghĩa là ” con gà “, tiếng Tà Ôi ” Atruôi ” cũng là ” con gà ” .Nhà nghiên cứu và điều tra Nguyễn Hữu Thông, một người điều tra và nghiên cứu rất nghiêm cẩn của Huế, cho biết ông cũng nghiêng về giả thuyết này. Tuy nhiên, vẫn là một giả thuyết thôi vì chưa có một Kết luận khoa học nào cho ” Truồi ” là ” Ntruôi “, ” Atruôi ” .Ngày đầu xuân, tôi trở lại xứ Truồi, đến thăm làng Nam Phổ Cần nằm cạnh bờ bắc sông Truồi là nơi mà người những làng chung quanh thường chỉ ” đó là làng Truồi “. Hỏi những vị cao niên, ai cũng phủ nhận không hề biết tên Truồi nghĩa là gì, có từ khi nào … Lịch sử vùng đất này vẫn cứ mang trong mình ẩn số ” Truồi “, liên tục chờ đón những nhà nghiên cứu cho họ một lời giải đúng chuẩn và chính thức …
Trong dân gian xứ Truồi có lưu hành một cách giải thích rằng thuở trước ở sân ga tàu lửa có một hàng cây ổi bị cưa ngang thành một dãy trụ. Người Pháp gọi là ga “trụ ổi” và phát âm thành “truoi”, lâu ngày thành “Truồi”. Cách giải thích này không thuyết phục vì cái tên Truồi đã có từ trước khi ga tàu lửa này ra đời.
Gần đây lại có giả thuyết mới cho rằng ” làng Truồi ” là tên chữ Nôm ( thuần Việt ), vật chứng là từ điển chữ Nôm đã ghi nhận. Tên đúng của nó là ” làng Chồi “, tức là chồi non của cây cối. Do vùng đất này có núi cao, cây cối xanh tươi đâm chồi nảy lộc, gọi là ” núi Chồi “. Làng ven sông đất đai phì nhiêu, vườn tược phong phú nên gọi là ” làng Chồi “. Qua thời hạn chữ ” Chồi ” biến âm thành ” Truồi “. Giả thuyết này đang chờ phản biện .———————————-
Kể cả khi xã, huyện thống nhất “giải oan” cho dân tình khỏi bị mang tiếng “tham chơi” khi đặt địa danh thành Tham Trơi, thì người miệt này cũng hay bị hỏi: “Chơi bời dữ thần ông địa hả”.
Xem thêm: Size L nữ tương đương size số mấy
Kỳ tới: Dân tình mang tiếng “tham chơi”
Giải mật những địa danh kỳ lạ – Kỳ 9: Giật mình vào… khu Tên Lửa TTO – Người ta nói có đường Tên Lửa thì phải có đường Máy Bay, rồi đường Xe Tăng, B40, nhưng kỳ thiệt là đến tận giờ tôi vẫn không thấy ( hay chưa gặp ? ) những tên đường có mùi … cuộc chiến tranh này.
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận