Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước trong quan hệ đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước còn được gọi là nguyên thủ quốc gia. Bài viết phân tích những quy định luật hiến pháp về chức danh Chủ tịch nước, cụ thể:
Tóm tắt nội dung bài viết
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước là gì?
- Tìm hiểu chế định về nguyên thủ quốc gia
- Sự ra đời và phát triển của chế định nguyên thủ quốc gia
- Vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia trong các chính thể
- Vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia ở các nước xã hội chủ nghĩa
- Vị trí, vai trò của chế định chủ tịch nước qua các bản hiến pháp của Việt Nam
- Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946
- 2 Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959
- 3 Chế định Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp năm 1980
- 4 Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1992
- 5 Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013
- Mối quan hệ của thiết chế Chủ tịch nước với các cơ quan quyền lực nhà nước
- Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và UBTVQH:
- Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ
- Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với TAND tối cao, VKSND tối cao
- Căn cứ quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan, cấu trúc bộ máy của thiết chế Chủ tịch nước bao gồm:
- a) Về Phó Chủ tịch nước
- b) Về Hội đồng Quốc phòng và An ninh
- c) Về Văn phòng Chủ tịch nước
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước là gì?
Hiến pháp năm 2013 quy định (chương VI với 8 điều) Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn như: Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.
Đồng thời, Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt đất nước đối nội và đối ngoại. Ảnh: Đức Phạm zing.vn.
Ngoài ra, Chủ tịch nước còn có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao…; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá.
Theo Hiến pháp, Chủ tịch nước quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng Nhà nước, danh hiệu vinh dự Nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam.
Chủ tịch nước có quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam.
“Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”, Hiến pháp nêu rõ.
Người đứng đầu Phủ chủ tịch có quyền tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại các nước…
Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, phiên họp của Chính phủ; yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
Bên cạnh đó, điều 93 quy định rõ Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài thì Phó chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó chủ tịch nước giữ quyền cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới.
Chế định Chủ tịch nước xuất hiện lần đầu tại Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1959, chức vụ Chủ tịch nước trở về khá giống với hiện tại.
Ở Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước được thay bằng chế định Hội đồng Nhà nước – là “Chủ tịch tập thể” của đất nước, bằng việc “sáp nhập” chức năng của Ủy ban thường vụ Quốc hội và chức năng của Chủ tịch nước.
Hiến pháp năm 1992 quy định quyền hạn và nhiệm vụ Chủ tịch nước được trở lại như cũ cho tới nay. Tuy nhiên, tại Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước đã được tăng thêm nhiều quyền hạn đáng kể để giám sát Chính phủ
Tìm hiểu chế định về nguyên thủ quốc gia
Ở các nước tư bản, người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ quốc gia) thường là tổng thống, quốc vương hay nữ hoàng (đối với nước theo chế độ quân chủ lập hiến). ở các nhà nước chủ nô và phong kiến thì người đứng đầu nhà nước thường là vua, hoàng đế.
Ở Việt Nam, chế độ Chủ tịch nước lần đầu tiên xuất hiện ở Hiến pháp năm 1946. Lúc đó Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong số các đại biểu Quốc hội. Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội (5 năm). Khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chủ tịch nước tiếp tỤC làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bẩu Chủ tịch nước mới. Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước uỷ nhiệm làm một số nhiệm vụ. Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới.
Theo Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi năm 2001, Chủ tịch nước có các nhiệm vụ quyền hạn sau đây:
1) Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
2) Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh;
3) Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
4) Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
5) Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá;
6) Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc trong địa phương;
7) Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất;
8) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân nhân tối cao;
9) Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp đại sứ, những hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh hiệu vinh dự nhà nước;
10) Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, kí kết điểu ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định;
11) Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam;
12) Quyết định đặc xá.
Để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chủ tịch nước có quyền ban hành lệnh và ra quyết định nhưng phải phù hợp với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Sự ra đời và phát triển của chế định nguyên thủ quốc gia
Trong bộ máy nhà nước có một thiết chế với những tên gọi khác nhau như: Vua, Hoàng đế, Quốc vương, Quốc trưởng, Nữ hoàng, Tổng thống, Đoàn chủ tịch, Hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước…, thiết chế này còn được gọi là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nước về đối nội và đối ngoại. Vua, Hoàng đế, Quốc vương, Quốc trưởng, Nữ hoàng là nguyên thủ quốc gia ở các nước theo chính thể quân chủ hoặc quân chủ lập hiến. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa tổng thống hoặc cộng hòa đại nghị. Đoàn Chủ tịch, Hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia ở các nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa. Theo hiến pháp hiện hành, nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Chủ tịch nước.
Trong lịch sử lập hiến của nhà nước tư sản, sự hình thành nguyên thủ quốc gia ở mỗi nước có những tiến trình và những đặc điểm khác nhau, nhưng có điểm chung đều bắt nguồn từ các cuộc cách mạng tư sản, với chủ trương phải lật đổ chế độ chuyên chế, xây dựng một chế độ dân chủ tư sản. Ở những nước cuộc cách mạng tư sản giành được thắng lợi triệt để, xóa bỏ chế độ cha truyền con nối, thì ở đó chính thể quân chủ được thay thế bởi chính thể cộng hòa. Những quốc gia này, nguyên thủ quốc gia không còn là một vị vua mà thay vào đó là một vị Tổng thống được hình thành bằng con đường bầu cử. Những nước cách mạng tư sản không đủ sức để đánh bại được giai cấp phong kiến đại diện là các vị Hoàng đế, mặc dù đã lỗi thời nhung vẫn còn đủ mạnh, thì ở đó quyền lực nhà nước buộc phải chia sẻ giữa giai cấp tư sản thống trị và giai cấp phong kiến. Những nước này xây dựng chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực nhà nước chủ yếu thuộc về nghị viện, quyền lực của nhà Vua bị giới hạn bởi hiến pháp. Tuy nhiên, cũng có những nơi sự tồn tại của chế độ quân chủ đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người dân trong xã hội, mặc dù cuộc cách mạng tư sản đã giành thắng lợi hoàn toàn, nhung giai cấp tư sản đã không xóa bỏ ngai vàng phong kiến mà tiếp tục duy trì chế độ quân chủ, nhằm sử dụng vị thế của Vua để phục vụ cho mục đích chính trị của mình. Hình thức chính thể của những nước này là quân chủ lập hiến, nhà Vua trị vì nhung không cai trị, quyền lực của nhà Vua chỉ mang tính hình thức và bị giới hạn bởi hiến pháp.
Đối với nhà nước Xã hội Chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, mọi quyền lực nhà nước thống nhất tập trung vào cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân đó là Xô-viết tối cao, Quốc hội. Xô-viết toi cao bầu ra Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao (Liên Xô), Quốc hội bầu ra Hội đồng nhà nước (các nước Đông Âu trước đây, Việt Nam theo Hiến pháp năm 1980), những nước này chức năng nguyên thủ quốc gia được thống nhất trong các chức năng của Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao và Hội đồng nhà nước. Do vậy, Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao, Hội đồng nhà nước được coi là nguyên thủ quốc gia tập thể. Một số nước Xã hội Chủ nghĩa khác, do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân từ truyền thống lịch sử ở nước đó, đã có thiết chế Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước, Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, thay mặt nước thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia trong các chính thể
Chế định về nguyên thủ quốc gia ở tất cả các nước đều được quy định trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp. Hiến pháp thành văn hoặc bất thành văn thường dành một chương hoặc một đạo luật quy định về trình tự bầu cử, thẩm quyền, các mối quan hệ của nguyên thủ quốc gia với các cơ quan nhà nước, về nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của nguyên thủ quốc gia ở mỗi nước có những quy định khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính thể, truyền thống dân tộc… Chính thể là yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia.
Trong chính thể quân chủ lập hiến, chức năng của nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương chỉ mang tính tượng trưng, mọi hoạt động của nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương chỉ nhằm mục đích chính thức hóa về mặt nhà nước các hoạt động đã rồi của Nghị viện và Chính phủ. Những mệnh lệnh của Vua, Nữ hoàng, Quốc vương phải được một bộ trưởng thuộc lĩnh vực đó kí “phó thự” thì mới có hiệu lực. Các bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện về các lệnh mà họ đã kí có nội dung trái với Hiến pháp và pháp luật. Việc nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương yêu cầu họ kí sắc lệnh này không được coi là lý do chính đáng. Vì vậy, trong chính thể quân chủ lập hiến, nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương không phải chịu trách nhiệm bất cứ vấn đề gì, trừ tội phản quốc. Chẳng hạn, Điều 63 Hiến pháp Bỉ năm 1831 quy định: “Nhà Vua không phải chịu trách nhiệm gì, các bộ trưởng sẽ phải chịu trách nhiệm”. Hoặc Điều 64 quy định: “Không sắc lệnh nào của nhà Vua cỏ hiệu lực, trừ khỉ được một bộ trưởng kí phó thự. Và với hành động kí phó thự này bộ trưởng sẽ phải chịu trách nhiệm về vấn đề tương ứng”.
Ở những nước theo chính thể cộng hòa tổng thống (như Mỹ, Mêhicô…) có đặc điểm Tổng thống do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra, vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Điều 80 Hiến pháp Mêhicô năm 1917 quy định: “Việc thi hành những quyền lực hành pháp tối cao của Liên bang được trao cho một người duy nhất, được gọi là “Tổng thống của Liên bang Mêhicô””’, Điều 81 quy định: “Tổng thống được bầu cử trực tiếp theo các quy định trong luật bầu cử”. Tổng thống thành lập nội các, bổ nhiệm thành viên nội các, nội các chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Chính chức năng đứng đầu bộ máy hành pháp đã làm cho Tổng thống – nguyên thủ quốc gia có quyền rất lớn, trong trường hợp Tổng thống và đa số Nghị viện ở cùng một đảng cầm quyền thì quyền lực nhà nước tập trung tuyệt đối vào tay Tổng thống.
Những nước theo chính thể cộng hòa đại nghị (hay còn gọi là cộng hòa nghị viện) Tổng thống được hình thành thông qua con đường Nghị viện bầu ra. Tổng thống không đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ. Thủ tướng không chịu trách nhiệm trước Tổng thống, mà chỉ chịu trách nhiệm trước Nghị viện. VỊ trí của Tổng thống trong các nước theo chính thể cộng hoà đại nghị, cũng giống như trong chính thể quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì.
Ở những nước theo chính thể cộng hòa lưỡng tính, vừa có đặc điểm của cộng hòa tổng thống, vừa có đặc điểm của cộng hòa đại nghị, Tổng thống được bầu theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, đồng thời là người có tác động trực tiếp đến bộ máy hành pháp. Cộng hòa Pháp là một điển hình về chính thể cộng hòa lưỡng tính, theo đó Hiến pháp năm 1958 của Pháp quy định vị trí chính thể là mô hình kết họp giữa chính thể cộng hòa tổng thống và chính thể cộng hòa đại nghị. Tổng thống được bầu cho nhiệm kì 5 năm theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp (Điều 6). Với tư cách là người đứng đầu nhà nước, Tổng thống bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng. Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Chính phủ (Điều 8). Tổng thống chủ trì các phiên họp Hội đồng Bộ trưởng (Điều 9). Chính phủ Pháp chịu trách nhiệm trước Nghị viện, không chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Thủ tướng điều hành hoạt động của Chính phủ, tổ chức thực thi chính sách quốc gia do Tổng thống quyết định. Khi Thủ tướng và nội các tổ chức thực thi chính sách quốc gia yếu kém, Quốc hội Pháp sẽ chất vấn, bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ.
Vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia ở các nước xã hội chủ nghĩa
Trong chính thể nhà nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào cơ quan đại diện quyền lực nhà nước là Xô-viết tối cao ở Liên Xô (trước đây) và Quốc hội ở các nước còn lại. Xô viết tối cao Liên Xô bầu Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô – cơ quan thường trực của Xô-viết tối cao Liên Xô, Chủ tịch tập thể của Liên bang cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết. Thành phần Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô gồm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô, một Phó Chủ tịch thứ nhất, mười lăm Phó Chủ tịch – mỗi nước Cộng hòa liên bang có một Phó Chủ tịch. Các nước khác, Quốc hội bầu Hội đồng nhà nước, cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, Chủ tịch tập thể của mỗi nước. Hội đồng nhà nước có Chủ tịch Hội đồng nhà nước, các Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước và các thành viên. Như vậy, các nước Xã hội Chủ nghĩa thuộc Liên Xô, Đông Âu trước đây, Cu Ba và ở Việt Nam (theo Hiến pháp năm 1980), Hiến pháp không quy định thiết chế nguyên thủ quốc gia là cá nhân. Xô-viết tối cao, Quốc hội nắm toàn bộ quyền lực nhà nước, trong đó có cả quyền “nguyên thủ quốc gia”. Mọi chức năng của nguyên thủ quốc gia đều do Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao, Hội đồng nhà nước đảm nhiệm. Việc trao chức năng nguyên thủ quốc gia cho Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao, Hội đồng nhà nước đã thể hiện tư duy tập thể lãnh đạo trong việc tổ chức nhà nước Xã hội Chủ nghĩa. Vai trò nguyên thủ tập thể của Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao, Hội đồng nhà nước ở các nước Xã hội Chủ nghĩa có thể nói là một đặc thù so với chính thể ở các nhà nước dân chủ khác.
Những nước Xã hội Chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Hiến pháp quy định chế định nguyên thủ quốc gia cá nhân là Chủ tịch nước, nhưng vẫn trong bối cảnh tổ chức quyền lực nhà nước là tập quyền. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo công tác với Chủ tịch nước.
Vị trí, vai trò của chế định chủ tịch nước qua các bản hiến pháp của Việt Nam
Trong bộ máy Nhà nước ta, thiết chế Chủ tịch nước được tổ chức khác nhau qua các bản hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 quy định là Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 1980 quy định là Hội đồng Nhà nước – Chủ tịch tập thể, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 trở lại quy định là Chủ tịch nước. Thiết chế Chủ tịch nước dù được quy định khác nhau trong từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước, song đều quy định: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Theo quy định của Hiến pháp, vị trí nguyên thủ quốc gia có tính chất phái sinh từ Quốc hội, điều này được thể hiện trong các bản hiến pháp như sau:
Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946
Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân, lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, song còn mang nhiều dấu ấn của hình thức chính thể cộng hòa đại nghị. Nghị viện nhân dân là co quan có quyền lực cao nhất nước, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của toàn quốc, do Nghị viện nhân dân thành lập nhung có vị trí độc lập tương đối so với Nghị viện. Chính phủ gồm có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trường, Thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng.
Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 do Nghị viện bầu ra trong số Nghị viện nhân dân, với nhiệm kì là 5 năm. Chủ tịch nước là thành viên Chính phủ. Chủ tịch nước có thẩm quyền: chọn Thủ tướng trong số Nghị viện nhân dân và đưa ra Nghị viện biểu quyết, sau đó bổ nhiệm Thủ tướng; chủ tọa các CUỘC họp của Hội đồng Chính phủ; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật đã được Nghị viện biểu quyết trước khi Chủ tịch nước ban bố, những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố.
Vị trí của Chủ tịch nước frong Hiến pháp năm 1946 là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước đồng thời đứng đầu cơ quan hành pháp, quyết định nhân sự Nội các và các chính sách hành pháp quốc gia. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 có nhiều đặc điểm của Tổng thống trong chính thể cộng hòa lưỡng tính, trong đó nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu hành pháp. Việc thực thi chính sách hành pháp quốc gia được trao cho Thủ tướng và Nội các thực hiện và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nghị viện có thẩm quyền biểu quyết mất tín nhiệm Nội các, trường hợp Nội các mất tín nhiệm thì phải từ chức. Chủ tịch nước do Nghị viện bâu ra nhưng có vị trí khá độc lập với Nghị viện, không chịu trách nhiệm trước Nghị viện, thậm chí còn có khả năng kiểm soát lập pháp của Nghị viện thông qua quyền phủ quyết luật hoặc sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các, thì Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề này ra Nghị viện thảo luận lại. Nhiệm kì của Nghị viện và Chủ tịch nước không trùng nhau, nhiệm kì của Nghị viện là 3 năm nhưng nhiệm kì của Chủ tịch nước là 5 năm. Những đặc điểm của chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 cho thấy các nhà lập hiến 1946 đã khẳng định một nguyên tắc hiến định “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân để điều hành nhà nước vừa mới giành chính quyền, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân để đánh đuổi thù trong giặc ngoài.
2 Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959
Theo Hiến pháp năm 1959, bộ máy nhà nước chuyển sang chế độ Xã hội Chủ nghĩa, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chế định Chủ tịch nước được quy định thành một chế định độc lập với tính chất là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra theo nhiệm kì của Quốc hội và có thể bị Quốc hội bãi nhiệm. Các quyền hạn của Chủ tịch nước chủ yếu mang tính đại diện hình thức cho các hoạt động đối nội, đối ngoại của nhà nước. Tuy nhiên, Chủ tịch nước vẫn có vai trò nhất định đối với cơ quan hành pháp và giữ quyền điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chủ tịch nước không đứng đầu Chính phủ như quy định trong Hiến pháp năm 1946, nhưng theo Điều 66 Hiến pháp năm 1959 thì “Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khỉ xét thay cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chỉnh phủ Điều 67 quy định: “Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khỉ xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt… Những ý kiến của Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hỏa chuyển đến Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ hoặc các cơ quan hữu quan khác đế thảo luận và ra quyết định ”. Có thể nói chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 mặc dù đã được quy định thành một thiết chế riêng, nhưng vẫn gắn nhiều với cơ quan hành pháp và đóng vai trò điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước.
3 Chế định Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp năm 1980 không quy định thiết chế Chủ tịch nước riêng biệt mà xác lập chế độ Chủ tịch nước tập thể, đó là Hội đồng nhà nước, theo như mô hình chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa ở các nước Xã hội Chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu thời kì đó. Chế định Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp năm 1980 là sự hợp nhất chế định Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1959. Vì vậy, “Hội đồng nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quổc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hội đồng nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng, thay mặt nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hội đồng nhà nước được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Hội đồng nhà nước có quyền giám sát công tác của Hội đồng Bộ trưởng, của Tòa án nhân dân tối và của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh; cử và bãi miễn các Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân tối; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… Như vậy, chế định Hội đồng nhà nước – Chủ tịch nước tập thể là biểu hiện rõ nhất về mô hình chính thể cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa, trong đó tập quyền và tập thể lãnh đạo là những nguyên tắc cơ bản trong việc tổ chức quyền lực nhà nước.
4 Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1992
Trong Hiến pháp năm 1992, chế định Chủ tịch nước được thiết lập trở lại thành một thiết chế riêng biệt như Hiến pháp năm 1959, nhung có sự kế thừa những ưu điểm của thiết chế Chủ tịch nước quy định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và chế định Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp năm 1980. Theo mô hình này đã tạo sự gắn bó giữa Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia. Đồng thời vẫn đảm bảo sự phân công, phối hợp giữa các cơ cấu của bộ
1 Điều 98 Hiến pháp năm 1980. máy nhà nước để thực hiện quyền lực nhà nước trong thời kì đổi mới. Theo đó, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; tham dự các phiên họp của Chính phủ khi cần thiết. Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua. Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5 Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013
VỊ trí, vai trò của chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013 được tiếp tục kế thừa những quy định về thiết chế Chủ tịch nước trong các bản hiến pháp trước đó, nhất là Hiến pháp năm 1992. Chế định Chủ tịch nước được quy định thành một thiết chế độc lập, không nằm ở một trong ba bộ phận quyền lực nhà nước là lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 quy định điều kiện để được bầu Chủ tịch nước phải là đại biểu Quốc hội, không quy định điều kiện về quốc tịch, xuất thân, độ tuổi tối thiểu của ứng viên “nguyên thủ quốc gia” như ở một số quốc gia trên thế giới.
Ví dụ: đối với chức danh Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Tổng thống Singapore tuổi tối thiểu là 45 tuổi; Tổng thống Cộng hòa liên bang Đức là 40 tuổi; Tổng thống Hoa Kỳ, Ấn Độ là 35 tuổi…
Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013 được quy định rõ hơn về mối quan hệ phối hợp giữa ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, thẩm phán Tòa án nhân dân tối; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối, thẩm phán các tòa án khác, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh…
Mối quan hệ của thiết chế Chủ tịch nước với các cơ quan quyền lực nhà nước
Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và UBTVQH:
Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ
tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước.
Để lại một bình luận