Do vậy, người Phật tử tất cả chúng ta, mỗi người cũng như tổng thể : Phải đem hết sức lực lao động, đem hết tận tâm, đem hết mồ hôi nước mắt để giữ gìn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Trong kinh Pháp Diệt Tận có nói rất rõ ràng : “ Vào thời mạt pháp kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hoại diệt trước hết, sau đó, những kinh khác từ từ biến mất. ”
Tóm tắt nội dung bài viết
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm vô cùng quan trọng
- Kinh Lăng Nghiêm là kính Chiếu yêu
- *
- *
- KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
- Kệ Khai Kinh
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm :Quyển 1 .
- Duyên Khởi
- *
- *
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Vấn đáp về “ Tâm ”
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở trong thân
- *
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở ngoài Thân
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở trong mắt
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở trong ngoài thân
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở chỗ Hòa hợp
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở chính giữa
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở cái không dính mắc
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Vọng Tâm – Tâm Phân Biệt
- *
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp tâm lý Phân biệt làm Tâm
- *
- *
- *
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Tánh Thấy chẳng phải là Mắt
- *
- *
- *
- *
- *
Kinh Thủ Lăng Nghiêm vô cùng quan trọng
Nếu như kinh Thủ Lăng Nghiêm không bị biến mất thì thời kỳ chánh pháp vẫn còn tồn tại. Do đó hàng Phật tử chúng ta phải đem tất cả tính mạng để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm,; Phải đem hết tâm huyết để thọ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm; Phải đem hết hạnh nguyện để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm làm cho kinh Thủ Lăng Nghiêm mãi mãi tồn tại ở thế gian; Xiển dương sâu rộng khắp nơi, lưu truyền đến mọi ngóc ngách ở trên thế gian; Cho đến từng hạt vi trần, khắp tận hư không pháp giới. Nếu chúng ta làm được như vậy thì nay vẫn còn thời chánh pháp đang tỏa chiếu ánh sáng đại quang minh.
Bạn đang đọc: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Tại sao lại nói kinh Thủ Lăng Nghiêm bị tiêu hủy thứ nhất ? Vì một điều quá chân thực, kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thân của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là Xá lợi của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là tháp miếu chân thực của đức Phật. Do vì đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm quá chân thực, nên toàn thể ma vương đều dùng mọi cách để tàn phá kinh Thủ Lăng Nghiêm. Họ mở màn đưa ra những lời đồn đại, xuyên tạc, cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là trá hình. Vì sao thiên ma ngoại đạo cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo ?
Kinh Lăng Nghiêm là kính Chiếu yêu
Vì kinh Thủ Lăng Nghiêm nói quá đúng chuẩn, đặc biệt quan trọng là phần nói về Bốn lời khai thị về bản tánh thanh tịnh sáng suốt ( Tứ chủng thanh tịnh minh hối ), phần Hai mươi lăm vị Thánh nói về pháp tu chứng viên thông, và phần Năm mươi tướng trạng ấm ma. Ngoại đạo tà giáo, yêu ma quỷ quái không thể nào chịu nổi giáo lý này. Cho nên họ kéo theo rất nhiều người thiếu hiểu biết công bố rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo .
Những đạo lý được yêu cầu trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, một mặt đúng là chánh pháp, mặt khác lại tương thích với đạo lý. Cho nên bọn tà ma, quỷ quái, bàng môn ngoại đạo không hề ẩn dấu tung tích được. Một số người thiếu ý thức, đơn cử là những học giả kém uyên bác ; Những giáo sư chuyên tích lũy kỹ năng và kiến thức tạp nham “ chuyên đuổi mồi bắt bóng ” ; Với sự hiểu biết cực kỳ hẹp hòi và hạn chế, họ trọn vẹn bị mê muội và nhầm lẫn ; Họ không có được sự uyên bác thực sự và không có trí tuệ chân thực, thế nên họ phê phán một cách hồ đồ .
Chúng ta là những người tu học Phật pháp, nên nhận thức thâm thúy về những trường hợp này. Do đó bất kể đi đâu tất cả chúng ta cũng phải xiển dương kinh Thủ Lăng Nghiêm .
*
Bất kỳ đi đâu tất cả chúng ta cũng nên truyền bá kinh Thủ Lăng Nghiêm. Bất kỳ đến đâu tất cả chúng ta cũng trình làng kinh Thủ Lăng Nghiêm cho mọi người. Sao vậy ? Vì tất cả chúng ta muốn làm cho chánh pháp sống sót lâu bền hơn ở trần gian. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, tôi xin có cam kết này với qúy vị :
Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực thì đương nhiên chẳng có yếu tố gì, còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, thì tôi nguyện rằng tôi là kẻ thứ nhất đọa vào Vô gián âm ti. Vì tôi không nhận thức được Phật pháp, nhận vọng làm chân. Còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực, thì tôi nguyện đời đời kiếp kiếp truyền bá đại pháp Thủ Lăng Nghiêm ; Nghĩa là mọi nơi mọi lúc tôi sẽ xiển dương đạo lý chân thực của kinh Thủ Lăng Nghiêm .
Mọi người nên chú tâm vào điểm này. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm không do từ kim khẩu Đức Phật nói ra, thì chẳng còn một ai hoàn toàn có thể giảng nói được. Chẳng còn một người nào khác hoàn toàn có thể nói được một giáo lý đúng chuẩn như kinh Thủ Lăng Nghiêm .
*
Vì thế tôi kỳ vọng rằng những người thiếu ý thức đã có những tâm lý sai lầm đáng tiếc này, sớm thức tỉnh, dừng lại việc tạo ra cái nhân sai lầm. Nếu không sẽ chiêu cảm quả báo ở âm ti Bạt thiệt. Bất luận học giả đó là ai, bất luận những nhà nghiên cứu Phật pháp ở bất kể vương quốc nào ; Tất cả nên nhanh gọn sửa đổi cách nhìn, nhận ra lỗi lầm của mình và tìm cách kiểm soát và điều chỉnh. Chẳng có việc thiện nào lớn lao hơn thế nữa .
Tôi chắc rằng khi tổng thể mọi người đều đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm ; Mọi người đều nghe giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm ; Mọi người đều tham cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm, thì toàn bộ đều sẽ chóng thành Phật đạo .
Ngài là Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, lời của Ngài chân thật không bao giờ hư dối!
*
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
(Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm)
- Sa môn Bát thích mật đế người Trung Thiên Trúc, dịch vào đời Đường .
- Sa môn Di già Thích ca, người nước Ô Trành dịch ngữ .
- Sa môn Hoài Địch, chùa Nam Lâu, núi La Phù, chứng tỏ bản dịch .
- Đệ tử thọ Bồ tát giới tên Phòng Dung, hiệu Thanh Hà, chức Tiền Chánh Nghị Đại Phu đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự bút thọ ( nhuận bút ) .
- Sa-môn Thích Vân Đàm dịch Hán Văn qua Phiên Âm Việt Ngữ
*
Kệ Khai Kinh
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu .
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe được chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm :Quyển 1 .
Duyên Khởi
Tôi nghe như vậy : Lúc ấy Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt, với chúng đại tỷ khưu, gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến dự. Tất cả những vị đều là bậc đại A La Hán đã chứng quả vô lậu .
Phật tử trú trì, khéo vượt qua những cõi, thường nơi những cõi nước thành tựu những uy nghi, theo Đức Phật chuyển pháp luân, khéo kham nhận lời di chúc của Đức Phật, giữ giới luật tinh nghiêm, làm bậc mô phạm trong ba cõi. Ứng thân vô số lượng để độ thoát chúng sinh trong đời vị Lai, tương hỗ họ vượt khỏi những ràng buộc nơi cõi trần .
Các vị ấy là Đại trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Hi La. Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Bà Ni Sa Đà làm thượng thủ. Lại có vô lượng những bậc Bích chi, những bậc vô học và hàng sơ phát tâm cùng đến chỗ Phật. Nhằm lúc những tỷ khưu làm lễ tự tứ mãn hạ, những vị Bồ Tát trong mười phương đến cầu thỉnh giải quyết tâm nghi. Đồng kính phụng đức từ nghiêm, thỉnh cầu Phật chỉ dạy nghĩa lý thâm mật .
*
Khi ấy Như Lai trải tòa ngồi an nhiên, vì đại chúng tuyên bày ý nghĩa thâm áo. Chúng hội thanh tịnh, được điều chưa từng có. Như tiếng chim Ca lăng tần già vang khắp mười phương cõi nước. Các vị Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng cùng đến đạo tràng. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ .
Khi ấy vua Ba-tư-nặc nhân ngày giỗ của vua cha, thiết lễ trai nghi, thỉnh Đức Phật vào cung cúng dường. Vua đích thân nghinh đón Như Lai, dâng cúng nhiều thức ăn ngon quý. Tự mình thỉnh mời những vị Đại Bồ Tát. Trong thành cũng có những vị trưởng giả cư sĩ đồng thời thiết lễ trai tăng, mong được thỉnh Phật đến cúng dường .
Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi phân lãnh những vị Bồ Tát và A La Hán đến nhà trai chủ dự lễ cúng dường .
Chỉ có A-Nan đã nhận lời biệt thỉnh. Đi xa chưa về, nên không kịp dự vào hàng tăng chúng, không cùng những vị thượng tọa và a-xà-lê đi. Hôm ấy không có người cúng dường, A-Nan chỉ một mình trên đường về .
Lúc ấy A-Nan mang bát vào thành khất thực theo thứ tự từng nhà. Ban đầu, trong tâm mong được gặp người đàn việt sau cuối để làm trai chủ. A-Nan không kể sang hèn, dòng dõi sang chảnh, hay chiên-đà-la thấp hèn, đều thực hành thực tế tâm từ bi bình đẳng. Mong được thành tựu viên mãn công đức vô lượng cho tổng thể chúng sinh .
*
A-Nan biết Như Lai quở trách Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp, là bậc A La Hán mà tâm không bình đẳng. A-Nan kính vâng lời khai thị không phân biệt của Đức Phật, để giúp chúng sinh thoát khỏi hoài nghi và hủy báng. A-Nan từ tốn đi qua hoàng thành rồi vào cổng, uy nghi nghiêm chỉnh theo đúng pháp hóa trai .
Khi ấy A-Nan theo thứ tự khất thực từng nhà, đi qua nhà dâm nữ. Gặp phải đại huyễn thuật Ma-đăng-già dùng thần chú Ta tì ca la tiên Phạm thiên bắt A-Nan, ép làm chuyện dâm dục. Dựa kề vuốt ve khiến A-Nan sắp hủy phạm giới thể .
Như Lai biết A-Nan bị dâm thuật kia gia hại nên thọ trai xong liền trở lại. Vua cùng những quan đại thần trưởng giả cư sĩ đều theo Phật, mong được nghe pháp yếu .
Khi ấy, trên đảnh Thế Tôn phóng ra trăm đạo hào quang vô úy quý báu sáng rỡ. Trong hào quang hiện ra hoa sen báu nghìn cánh, trên đó có hóa thân Phật đang ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú .
Đức Phật dạy ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú đến cứu A-Nan. Khiến tà chú liền bị tàn phá, rồi dẫn A-Nan và con gái Ma Đăng Già về chỗ Phật .
*
A-Nan đảnh lễ Đức Phật, hối hận từ vô thỉ đến nay, chỉ một hướng thích học rộng nhớ nhiều, nên chưa được toàn vẹn đạo lực. Nay A-Nan ân cần cung kính thỉnh Phật truyền dạy pháp tu xa-ma-tha ( chỉ ), tam-ma ( quán ) và thiền-na ( thiền ) là phương tiện đi lại vi diệu khởi đầu của mười phương những đức Như Lai đã tu tập mà chứng được bồ-đề .
Khi ấy có hằng hà sa Bồ Tát, những vị Đại A La Hán, Bích Chi Phật … trong khắp mười phương, đều mong mỏi được nghe. Tất cả ngồi yên lặng chờ nghe lời Phật chỉ dạy .
Khi ấy trong hội chúng, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay màu vàng xoa đảnh A-Nan, nói với A-Nan cùng đại chúng : “ Có pháp tam-ma-đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm vương, khá đầy đủ vạn hạnh. Là pháp môn trang nghiêm vi diệu mà mười phương Như Lai đều từ đó lưu xuất, nay ông nên nghe kỹ. ”
A-Nan đảnh lễ, cung kính lắng nghe lời dạy từ bi của Thế Tôn .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Vấn đáp về “ Tâm ”
Đức Phật bảo A-Nan : “ Ông với Như Lai là đồng đội cùng một dòng họ. Khi mới phát tâm tu tập trong giáo pháp của Như Lai, ông thấy điểm thù thắng nào mà từ bỏ ân ái sâu nặng trần gian để xuất gia ? ”
A-Nan thưa : “ Bạch Thế Tôn, do con thấy ba mươi hai tướng tốt thù thắng vi diệu tuyệt vời của Như Lai, hình thể sáng chói trong suốt như ngọc lưu ly. ” Con thường tự tâm lý những tướng tốt này không phải do ái dục mà sanh ra .
Sao vậy ? Vì dục khí thì thô nặng và dơ bẩn. Từ sự uế tạp và thối tha ấy giao hợp với nhau tạo thành một thứ tinh huyết hỗn tạp. Từ đó không hề sinh ra một thân thể thù thắng thanh tịnh, sáng chói vi diệu như khối vàng tía này. Do đó mà con khá ́ t ngưỡng, theo Phật xuất gia .
*
Đức Phật nói : “ Lành thay ! A-Nan, những ông nên biết toàn bộ chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra chân tâm thường trụ. Thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm những vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thực, thế nên bị luân chuyển. ”
Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và ý tưởng chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thật như vậy, đến khoảng chừng thời hạn trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói cong vạy .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở trong thân
A-Nan, nay tôi hỏi ông : “ Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích ba mươi hai tướng tốt của Như Lai. Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì ?
A-Nan thưa : “ Bạch Thế Tôn ! Sự thương mến như thế là do tâm và mắt của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử. ”
Đức Phật bảo A-Nan : “ Như ông nói, thật chỗ thương mến là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào thu phục được trần lao. ” Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu. Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng tâm và mắt nay ở chỗ nào ?
A-Nan thưa : “ Bạch Đức Thế Tôn, tổng thể mười loài dị sinh ở trong trần gian đồng cho rằng tâm ở trong thân. Con thấy dù con mắt sen xanh của Như Lai, cũng nằm ở trên mặt. ” Nay con quan sát những căn thô phù của tứ trần này, chỉ ở trên mặt con. Và cũng quán sát như vậy, thức tâm thực là ở trong thân con .
*
Đức Phật bảo A-Nan : “ Nay ông hiện đang ngồi trong giảng đường cùng Như Lai, ông xem thấy vườn cây Kỳ-đà đang ở chỗ nào ? ”
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, giảng đường thanh tịnh nhiều tầng to lớn này là ở trong vườn ông Cấp Cô Độc. Còn rừng Kỳ Đà đúng là ở bên ngoài giảng đường .
Đức Phật bảo : A-Nan, nay đang ngồi trong giảng đường, trước hết ông thấy gì ?
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, con nay trong giảng đường, trước hết thấy Như Lai, rồi thấy đại chúng. Như thế nhìn ra ngoài, con thấy được rừng cây .
Đức Phật bảo A-Nan : A-Nan, khi ông thấy rừng cây là nhờ vào đâu mà thấy được ?
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, do những cửa của giảng đường này lan rộng ra, nên con ở trong giảng đường thấy suốt ra ngoài xa .
*
Đức Phật bảo A-Nan : “ Như ông vừa nói, ở trong giảng đường, do cửa mở rộng, nên hoàn toàn có thể nhìn ra thấy được vườn rừng. Liệu có người ở trong giảng đường không thấy Như Lai, mà thấ ́ y được vật bên ngoài không ?
A-Nan thưa : “ Bạch Thế Tôn, ở trong giảng đường, không thấy Như Lai, mà thấy được rừng suối là điều không hề có. ”
Đức Phật bảo A-Nan Này A-Nan, ông cũng như vậy. Tâm linh của ông thông suốt rõ ràng toàn bộ mọi vật. Nếu tâm hiện tiền thông suốt rõ ràng, ấy thật là ở trong thân ông, thì trước hết nó phải biết được những gì trong thân ông. Liệu có nơi nào thấy được trong thân trước rồi sau mới thấy cảnh vật bên ngoài chăng ?
Dù chẳng thấy tim, gan, tỳ, vị … nhưng móng tay mọc ra, tóc dài, gân chuyển, mạch đập, lẽ ra phải biết rõ. Tại sao chẳng biết ? Nếu đã không biết chuyện bên trong thân, làm thế nào biết vật ngoài thân ?
Thế nên phải biết, ông nói tâm hiểu biết này ở bên trong thân, là không hài hòa và hợp lý .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở ngoài Thân
A-Nan cúi đầu đảnh lễ bạch Phật : “ Bạch Đức Thế Tôn, con nghe lời khai thị của Như Lai như vậy, nên nhận ra tâm con đúng là ở ngoài thân. ”
Tại sao ? Ví như có ngọn đèn sáng ở trong nhà. Trước tiên chắc như đinh phải soi chiếu trong nhà, rồi theo cửa mở, mới chiếu ra ngoài sân. Tất cả chúng sinh sở dĩ không thấy trong thân, mà chỉ thấy ngoài thân. Cũng giống như ngọn đèn sáng để ngoài nhà, nên không hề soi chiếu trong phòng được .
Nghĩa này chắc đã rõ ràng, không có gì hoài nghi và trọn vẹn đúng với nghĩa rốt ráo của Đức Phật. Như thế không biết có đúng chăng ?
Đức Phật bảo A-Nan : “ Các vị tỷ-khưu vừa qua cùng Như Lai tuần tự khất thực trong thành Thất-la-phiệt, nay đã quay trở lại rừng Kỳ Đà. Như Lai đã thọ trai xong, nay hỏi những tỷ khưu, khi một người ăn, những người khác có no không ? ”
A-Nan thưa : “ Bạch Thế Tôn, không hề. Tại sao ? Các vị tỷ-khưu này tuy đã chứng quả A La Hán, nhưng thân mạng không đồng. Làm sao một người ăn mà toàn bộ đều no được ?
*
Đức Phật bảo A-Nan : “ Nếu cái tâm thấy nghe hiểu biết của ông thực ở ngoài thân, thì thân tâm tách biệt nhau, tự nó không tương quan với nhau. Vậy điều gì tâm biết thì thân ắt không biết, và những gì thân biết thì tâm không hề biết. ”
Nay Như Lai đưa cánh tay đâu la miên cho ông xem, khi mắt ông thấy, tâm ông có phân biệt chăng ? ”
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, đúng vậy .
Đức Phật bảo A-Nan : Nếu thân tâm cùng biết nhau, thế sao ông nói tâm ở ngoài thân ? ”
Thế nên phải biết, ông nói tâm thấy nghe hiểu biết ở ngoài thân, thật không có lý .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở trong mắt
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy, vì chẳng thấy bên trong, nên tâm con chẳng phải ở trong thân. Vì thân tâm đều biết nhau, mà chẳng rời nhau nên tâm con chẳng phải ở ngoài thân. Nay con tâm lý, biết nó ở tại một chỗ .
Đức Phật hỏi : “ Nay ở nơi nào ? ”
A-Nan thưa : “ Do tâm rõ biết này chẳng biết những gì bên trong, và lại thấy được những thứ bên ngoài. Như con xem xét, thì nó núp bên trong con mắt. ”
Ví như có người lấy chén lưu ly úp lên con mắt, tuy có vật phủ lên mà mắt chẳng bị ngăn ngại. Khi mắt thấy được, liền theo đó có sự phân biệt .
Song cái tâm rõ biết của con chẳng thấy được bên trong, là vì nó ở trong con mắt. Nhưng nó vẫn thấy được vật bên ngoài rõ ràng không bị chướng ngại, là vì tâm núp sau con mắt .
*
Đức Phật bảo A-Nan : Như ông vừa nói, tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén lưu ly. Vậy người kia sau khi úp chén lưu ly lên mắt mà xem thấy núi sông, thật có thấy chén lưu ly không ?
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn : Đúng thế, khi người ấy úp chén lưu ly lên mắt, thật có thấy chén lưu ly .
Đức Phật bảo : “ Nếu tâm ông giống như con mắt núp sau chén lưu ly, thì khi xem thấy núi sông, sao ông không thấy con mắt ? ”
Nếu thấy được mắt thì mắt đồng như cảnh bị thấy. Như vậy chẳng thành nghĩa tùy thấy. Còn nếu chẳng thấy con mắt thì tại sao ông lại nói tâm hiểu biết này núp trong con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly ?
Thế nên phải biết, ông nói cái tâm hiểu biết suốt khắp núp trong con mắt giống như con mắt nấp sau chén lưu ly. Điều đó vô lý .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở trong ngoài thân
A-Nan bạch Phật : “ Bạch Thế Tôn, nay con có tâm lý như vậy : thân thể con người, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt ở ngoài. Nơi tạng phủ thì tối, nơi khiếu huyệt thì sáng .
Nay con đối trước Phật, mở mắt thấy sáng, gọi là thấy bên ngoài, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy đúng chăng ?
Đức Phật bảo A-Nan : Khi ông nhắm mắt thấy tối, bóng tối có sẵn ở trước mắt ông hay sao ? Nếu có sẵn trước mắt ông thì bóng tối ấy là ở trước mắt ông, sao lại nói ở là bên trong ?
Nếu thật ở bên trong thì khi ông vào trong nhà tối không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn thì bóng tối trong phòng ấy là từ tam tiêu và ngũ tạng của ông hay sao ? Còn nếu nó chẳng có trước mắt ông thì làm thế nào có nghĩa thấy ?
*
Nếu bỏ lỡ cái thấy bên ngoài, mà cho rằng con mắt hướng vào bên trong nên thấy tối, thì khi nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy trong thân. Vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy được khuôn mặt ?
Nếu chẳng được thấy mặt thì chẳng có cái thấy bên trong. Nếu thấy được mặt thì cái tâm rõ biết này và con mắt phải ở ngoài hư không, làm thế nào ở phía trong được ?
Nếu ở ngoài hư không thì nó chẳng phải là tự thể của ông, thế nay Như Lai thấy được mặt ông. Như Lai cũng là thân của ông hay sao ?
Trong trường hợp đó, khi mắt ông biết thì thân ông vẫn không biết. Ắt là ông cho thân và mắt đều biết, thì phải thành hai cái biết. Tức là một thân của ông hoàn toàn có thể thành hai vị Phật .
Thế nên phải biết, khi ông nói thấy tối là thấy trong thân, điều ấy vô lý .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở chỗ Hòa hợp
A-Nan thưa : Con thường nghe Đức Phật dạy tứ chúng, do tâm sinh nên những pháp sinh, do pháp sinh nên những thứ tâm sinh .
Nay con tâm lý, thì cái thể của tâm lý ấy thực là tâm con, tùy chỗ hoà hợp, tâm theo đó mà có, chẳng phải ba chỗ trong, ngoài và ở giữa .
Đức Phật bảo A-Nan : Nay ông nói do pháp sanh nên những thứ tâm sanh, tùy chỗ hòa hợp, tâm tùy theo đó mà có. Tâm ấy nếu có tự thể, chắc là không có chỗ hòa hợp. Nếu không có tự thể mà hòa hợp thì cũng giống như giới thứ mười chín hòa hợp với trần thứ bảy. Nghĩa ấy không đúng .
Nếu tâm có tự thể, khi ông lấy tay gãi trên thân thì tâm ông có nhận ra cái biết từ bên trong thân ra, hay do ngoài thân mà có ? Nếu từ trong thân ra thì phải trở lại thấy trong thân. Nếu từ ngoài vào thì trước hết phải thấy được mặt của ông .
A-Nan thưa : Thấy là ở con mắt, còn cái biết nơi tâm thì không phải do mắt, tâm thấy là không hài hòa và hợp lý .
*
Đức Phật bảo : Giả sử như mắt hoàn toàn có thể thấy thế khi ông ở trong nhà, cái cửa hoàn toàn có thể thấy được chăng ? Cũng thế, khi người chết, mắt họ vẫn còn, lẽ ra vẫn còn thấy được vật. Nếu thấy được vật, sao gọi là chết ?
Lại nữa A Nan, nếu tâm hiểu biết của ông có tự thể, thì có một thể hay nhiều thể ? Nó ở nơi thân ông là khắp cả thân hay chẳng khắp cả thân ?
Nếu tâm chỉ có một thể thì khi ông lấy tay gãi một chỗ trên thân thì lẽ ra những nơi khác trên thân đều có cảm xúc. Nếu toàn bộ thân phần đều có cảm xúc, thì chỗ gãi không nhất định. Nếu chỗ gãi nhất định thì nghĩa tâm có một thể là không hài hòa và hợp lý .
Nếu có nhiều thể thì thành ra có nhiều người. Vậy thể nào là của ông ?
Nếu ở khắp thân thì như đã nói trước đây, nếu chẳng khắp thân thì khi ông xoa đầu rồi sờ chân, nếu đầu biết thì chân phải không biết. Nhưng trường hợp này không đúng với ông .
Thế nên phải ghi nhận, tùy chỗ hòa hợp, tâm theo đó mà hiện hữu là không hài hòa và hợp lý .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở chính giữa
A-Nan bạch Phật : Bạch Thế Tôn, con được nghe khi Thế Tôn cùng với ngài Văn Thù Sư Lợi và những vị pháp vương tử bàn về nghĩa thực tướng. Thế Tôn nói : Tâm chẳng phải ở trong, cũng không phải ở ngoài .
Theo con suy nghĩ, nếu tâm ở bên trong mà không thấy được vật bên trong, còn ở ngoài thì tâm và thân chẳng biết nhau. Vì tâm không biết ở trong, nên nghĩa ở trong không hợp lý. Vì thân tâm biết nhau, nên nói tâm ở ngoài cũng chẳng phải. Nay vì thân tâm biết nhau, và lại cũng không thấy được bên trong, nên tâm chắc chắn ở giữa.
Đức Phật bảo : Ông nói tâm ở giữa, chỗ ấy hẳn là không phải bỗng dưng mà có, hoặc không có vị trí nhất định. Nay ông phải xét kỹ, điểm giữa ấy là nơi nào ? Là tại cảnh bên ngoài, hay là ở trên thân ?
Nếu điểm giữa ấy ở nơi thân, khi ở một bên thân thì chẳng phải là ở giữa. Nếu ở giữa thân thì đồng như ở trong thân. Nếu điểm giữa là nơi cảnh, thì điểm ấy nêu ra được hay không nêu ra được ? Nếu không nêu ra được thì đồng như không có, còn nêu ra được thì điểm ấy không có vị trí nhất định .
*
Tại sao ? Ví như có người cắm cây nêu để làm điểm giữa, nếu nhìn từ phương Đông thì cây nêu ở phía Tây, nếu nhìn từ phương Nam thì cây nêu ở phía Bắc. Tiêu điểm đã không rõ ràng thì tâm ông cũng thành rối loạn .
A-Nan thưa : Con nói điểm giữa, chẳng phải là hai thứ ấy. như Thế Tôn dạy, mắt gặp sắc trần, duyên sanh nhãn thức. Mắt thì có phân biệt, còn sắc trần thì vô tri. Thức phát sinh trong khoảng chừng giữa ấy, đó chính là tâm con .
Đức Phật bảo : Tâm ông nếu ở khoảng chừng giữa căn và trần, vậy tâm thể ấy gồm cả hai bên, hay không gồm cả hai bên ?
Nếu gồm cả hai bên thì căn trần lẫn lộn. Trần thì không biết, căn thì có biết, hai thứ trái chiều nhau. Chỗ nào gọi là điểm giữa ? Gồm cả hai bên cũng không được, vì không phải có biết và cũng không phải không có biết, tức là không hoàn toàn có thể tánh. Điểm giữa ấy lấy gì làm tướng ?
Thế nên phải biết tâm ở chặng giữa là không có lý .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp Tâm ở cái không dính mắc
A-Nan bạch Phật : Bạch Thế Tôn, lâu nay con thấy Phật cùng bốn vị đệ tử lớn là ngài Đại Mục Kiền Liên, Tu bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lợi-phất cùng chuyển pháp luân. Đức Phật thường nói : tâm tánh hiểu biết phân biệt không phải ở trong, không phải ở ngoài, không phải ở chặng giữa, đều không có nơi chỗ. Hết thảy đều không dính mắt, đó gọi là tâm. Vậy cái không dính mắc của con có được gọi là tâm chăng ?
Đức Phật bảo A-Nan : Ông nói bản tánh của tâm hiểu biết phân biệt này đều không ở tại đâu cả. Vậy những vật có hình tướng trên trần gian như hư không và những loài thủy, lục, không, hành … toàn bộ những vật. Cái dính mắc mà ông nói đó là hiện hữu hay không hiện hữu ?
Nếu không hiện hữu thì đồng như lông rùa sừng thỏ. Sao gọi là không dính mắc ?
Nếu đã có cái không dính mắc thì không hề gọi là không. Không tướng thì không. Chẳng không thì phải có tướng. Có tướng thì phải có chỗ nơi, làm thế nào lại nói là không dính mắc ?
Thế nên phải biết toàn bộ cái không dính mắc mà gọi là tâm hiểu biết, là không có lý .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Vọng Tâm – Tâm Phân Biệt
Khi ấy A-Nan ở trong đại chúng, đứng dậy bày vai áo bên phải, đầu gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật :
Con là em nhỏ nhất của Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn yêu quý, nay tuy con đã xuất gia, nhưng vẫn còn ỷ lại lòng yêu thương của Thế Tôn, do đó chỉ được đa văn mà chưa được quả vô lậu. Nên con không hề chiết phục được chú thuật Ta-tỳ-ca-la, bị nó xoay chuyển và sa vào nhà dâm, tổng thể chỉ vì không biết chỗ quy hướng chân tâm .
Cúi mong đức Thế Tôn mở rộng lòng từ, thương xót chỉ dạy cho chúng con, pháp tu thiền định ( xa-ma-tha ), khiến cho hàng nhất-xiển-đề và miệt-lệ-xa thoát khỏi tà kiến .
Sau khi thưa thỉnh, A-Nan gieo năm vóc xuống đất, cùng toàn thể đại chúng kính cẩn đứng trông chờ được nghe lời chỉ dạy của Đức Phật .
Khi ấy từ trên cửa mặt ( khoảng chừng giữa hai chân mày ) của Đức Thế Tôn phóng ra những thứ hào quang. Các hào quang ấy sáng chói như trăm ngàn mặt trời .
*
Sáu điệu chấn động khắp những cõi Phật. Mười phương cõi nước như số vi trần đồng thời hiện ra. Do oai thần của Phật, khiến những quốc tế vi trần ấy hợp thành một cõi. Trong những cõi nước ấy, những vị Đại Bồ Tát ở nơi quốc độ của mình đều chắp tay lắng nghe lời Phật dạy .
Đức Phật bảo A-Nan : Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo những thứ điên đảo, tự nhiên tạo thành những giống nghiệp như chùm hạt ác-xoa .
Những người tu hành không thành được đạo vô thượng bồ-đề, mà chỉ thành Thanh Văn, Duyên Giác ; Hoặc thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma …
Đều do không biết hai món cơ bản, nên tu tập sai lầm đáng tiếc. Họ cũng như người nấu cát mà mong thành cơm. Dù có trải qua nhiều kiếp như vi trần nhưng rốt ráo vẫn không hề đạt được những gì mong ước .
Những gì là hai món cơ bản ?
*
A-nan, một là cơ bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà lúc bấy giờ ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh .
Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ đề niết bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi những duyên bị ông quên mất .
Do những chúng sinh bỏ quên tánh bản minh này, tuy trọn ngày mình sử dụng nó mà chẳng tự biết, nên bị trôi lăn oan uổng trong những cõi .
A-Nan, nay ông muốn biết con đường tu tập thiền định, với ước nguyện được thoát khỏi sinh tử, tôi lại hỏi ông. Như Lai đưa cánh tay sắc vàng lên, co năm ngón tay lại rồi
Đức Phật hỏi : A-Nan, Ông có thấy chăng ?
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, con có thấy .
Đức Phật hỏi : Ông thấy cái gì ?
A-Nan đáp : Con thấy Như Lai đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt của con .
Đức Phật hỏi : Ông lấy cái gì để thấy ?
A-Nan thưa : Cả đại chúng và con đều thấy bằng mắt .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Chấp tâm lý Phân biệt làm Tâm
Đức Phật bảo A-Nan ; Như ông vừa vấn đáp, nói rằng Như Lai co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt ông. Mắt ông hoàn toàn có thể thấy được, nhưng ông lấy gì làm tâm để cho nắm tay sáng chói chiếu vào ?
A-Nan thưa : Đức Phật gạn hỏi tâm ở chỗ nào, nay con dùng tâm Để ý đến cùng tột để tìm kiếm. Con cho rằng chính cái biết tâm lý tìm kiếm ấy là tâm con .
Đức Phật bảo : Sai rồi A-Nan, đó chẳng phải là tâm ông .
A-Nan giật mình, rời chỗ ngồi, đứng dậy chắp tay bạch Phật : Đó chẳng phải là tâm của con, vậy thì nó là gì ? `
Đức Phật bảo A-Nan : Đó là sự tưởng tượng những tướng giả dối của tiền trần, nó làm mê mờ chân tánh của ông. Do từ vô thỉ đến nay, ông nhận giặc này làm con, bỏ mất tánh nguyên thường nên phải chịu luân hồ ̀ i .
A-Nan bạch Phật : Bạch Đức Thế Tôn, con là em của Phật, vì tâm kính yêu Phật nên con xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai mà còn trải qua nhiều quốc độ như cát sông Hằng, thừa sự chư Phật và thiện tri thức. Phát tâm đại dõng mãnh, làm tổng thể những pháp sự khó làm là đều vận dụng tâm này. Dù con có hủy báng Phật pháp, rời bỏ thiện căn, cũng do tâm này .
*
Nay Đức Phật chỉ rõ cái ấy không phải là tâm, thì con thành ra không có tâm, như gỗ như đá. Vì ngoài cái hay biết ấy ra, con chẳng còn gì khác nữa. Sao Như Lai lại bảo cái ấy chẳng phải là tâm ? Con thật kinh sợ và trong đại chúng ai cũng nghi vấn. Cúi xin Đức Phật rủ lòng từ bi chỉ dạy cho những người chưa được giác ngộ .
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn chỉ dạy cho A-Nan và cả đại chúng, muốn cho tâm họ được vô sanh pháp nhẫn. Từ nơi toà sư tử, Đức Phật xoa đầu A-Nan rồi
Đức Phật bảo rằng : Như Lai thường nói những pháp phát sinh đều do từ tâm bộc lộ. Tất cả nhân quả và quốc tế nhiều như vi trần đều nhân nơi tâm mà hoàn toàn có thể tánh .
A-Nan, như toàn bộ sự vật hiện hữu trong quốc tế từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, nút thắt …
Khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều hoàn toàn có thể tánh. Cho đến như hư không cũng có tên gọi và dáng mạo .
Huống gì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là thực chất của tổng thể mọi tâm niệm mà tự nó lại không hoàn toàn có thể tánh hay sao ?
*
Nếu ông chấp chặt tánh phân biệt hiểu biết, cho đó là tâm ; Thì tâm này khi rời tổng thể sắc thanh, hương, vị xúc, thì tâm ấy phải riêng có toàn tánh. Như ông nay nghe pháp của Như Lai, đó là nhân âm thanh mà có sự phân biệt. Dù có diệt hết cái thấy, nghe, hiểu, biết mà giữ được sự thanh thản, lặng lẽ bên trong, đều do bóng hình của sự phân biệt pháp trần vẫn còn .
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm. Nhưng ông phải xem xét chính chắn, nếu có một thể tánh phân biệt khi rời hẳn tiền trần thì đó chính là tâm ông .
Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn tự thể thì đó chỉ là bóng hình phân biệt của tiền trần. Trần ấy chẳng phải là thường trụ, khi nó biến diệt thì cái tâm ấy cũng như lông rùa sừng thỏ. Ắt pháp thân ông cũng đồng như đoạn diệt. Ai là người tu chứng vô sanh pháp nhẫn ?
Lúc ấy A-Nan cùng toàn thể đại chúng đều lạng lẽ, ngơ ngác .
Đức Phật bảo A-Nan : Tất cả mọi người tu học trong trần gian, mặc dầu nay đã được cửu thứ đệ định ; Nhưng không hết sạch mê lầm, thành bậc A La Hán ; Đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt, lầm cho đó là tính chân thực. Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa thành thánh quả .
*
A-Nan nghe rồi đau xót thút thít, gieo năm vóc sát đất, quỳ xuống chắp tay bạch Phật. Từ khi con phát tâm xuất gia theo Phật, chỉ biết ỷ lại vào oai thần của Phật. Con thường nghĩ rằng, khỏi phải nhọc công tu hành làm gì, kỳ vọng Như Lai sẽ ban cho con chánh định. Con không tự biết thân và tâm của Phật và con chẳng thay thế sửa chữa cho nhau được. Vậy nên con tự đánh mất bản tâm, tuy thân đã xuất gia mà tâm chẳng nhập đa. Con như người cùng tử bỏ cha trốn đi .
Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều, nếu chẳng tu hành thì cũng như chưa nghe. Như người chỉ nói đến thức ăn, rốt cục chẳng được no bụng .
Bạch Thế Tôn ! Nay chúng con đều bị trói buộc bởi hai thứ chướng ngại, do chẳng biết tâm tánh vốn thường hằng lạng lẽ. Cúi mong Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng cơ cực, làm phát khởi tâm nhiệm mầu sáng suốt, mở bày mắt đạo cho chúng con .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm : Tánh Thấy chẳng phải là Mắt
Khi ấy từ chữ vạn ở trên ngực Như Lai phóng ra hào quang báu, ánh sáng rực rỡ tỏa nắng với trăm ngàn sắc tố, chiếu sáng đồng thời suốt khắp mười phương quốc tế chư Phật nhiều như số vi trần. Hào quang ấy rót xuống trên đảnh những đức Như Lai ở những cõi Phật trong khắp mười phương. Xoay về soi đến A-Nan và toàn thể đại chúng .
Rồi Đức Phật bảo A-Nan : Nay Như Lai vì ông dựng lập pháp tràng lớn. Khiến cho tổng thể chúng sinh khắp mười phương đạt được tâm tánh trong sáng, sâu kín nhiệm mầu và đạo nhãn thanh tịnh .
A-Nan, trước đây ông đã vấn đáp rằng thấy nắm tay chói sáng. Vậy nắm tay này nhân đâu mà có ? Làm sao nắm tay trở nên sáng chói ? Ông lấy cái gì để thấy ?
A-Nan thưa : Thân của Phật như vàng diêm-phù-đàn sáng ngời như núi báu. Do đức tính thanh tịnh sinh ra, vậy nên có hào quang chói sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy năm ngón tay Phật co lại thành nắm tay, đưa lên cho mọi người xem .
Đức Phật bảo A-Nan : Hôm nay Như Lai chân thực nói với ông. Những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ .
A-Nan, ví như nắm tay của Như Lai, nếu không có bàn tay thì chẳng thành nắm tay. Nếu không có mắt thì ông không hề thấy. Áp dụng ví dụ nắm tay của Như Lai và cái thấy từ mắt ông có giống nhau chăng ?
*
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, đúng như vậy. Nếu không có mắt thì không thành cái thấy. Nếu đem ví dụ nắm tay của Phật so với cái thấy từ mắt của con, nghĩa ấy như nhau .
Đức Phật bảo A-Nan : Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Sao vậy ? Nếu một người không có tay thì hẳn nhiên là không có nắm tay. Nhưng những người mù, chẳng phải họ trọn vẹn không có cái thấy .
Bởi tại sao ? Ông thử ra đường hỏi những người mù mắt : Ông thấy gì không ?
Các người mù chắc như đinh sẽ đáp : Nay tôi chỉ thấy một màu tối đen trước mắt, ngoài những không thấy gì khác. Theo nghĩa ấy mà quán xét thì đã rõ. Người mù thấy màu tối đen phía trước, chứ cái thấy của họ đâu có thiếu mất .
A-Nan thưa : Cái duy nhất mà người mù hoàn toàn có thể thấy được trước mắt là màu tối đen. Sao hoàn toàn có thể gọi là thấy được ?
Đức Phật bảo A-Nan : Có gì khác nhau giữa màu tối đen mà người mù thấy được và màu tối đen mà người sáng mắt nhìn thấy khi họ ở trong phòng tối ?
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Hai màu tối đen, một do người ở trong phòng tối thấy và một do người mù thấy không có gì khác nhau .
*
Đức Phật bảo : A-Nan, nếu người mù chỉ thấy được màu tối đen khi bỗng dưng được sáng mắt lại, thấy được đủ loại sắc tướng. Ông gọi đó là do mắt thấy. Và khi người ở trong phòng tối kia, chỉ thấy phía trước trọn vẹn tối đen, bỗng dưng thấy được mọi vật nhờ có đèn sáng. Lẽ ra nên gọi đèn thấy là đúng hơn .
Nếu cái thấy do đèn thì đèn đã có được cái thấy, nên chẳng gọi là đèn ; Và nếu là đèn thấy thì quan hệ gì đến ông ?
Thế nên phải ghi nhận, đèn làm hiển lộ những vật thể. Còn cái thấy đó là do ở mắt, chứ không phải đèn. Khi mắt nhận rõ những vật thể thì tánh thấy đó chính là tâm, chẳng phải là mắt .
Mặc dù A-Nan và đại chúng được nghe đức Phật chỉ dạy như vậy. Nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn yên lặng, mong Như Lai dùng lời từ bi chỉ dạy thêm. Nên đứng chắp tay, lắng lòng trông chờ Đức Phật thương xót chỉ bày .
Khi ấy, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay đâu-la miên sáng chói, xoè năm ngón tay, bảo A-Nan cùng toàn thể đại chúng :
Khi mới thành đạo, Như Lai đến vườn Lộc uyển, có dạy cho năm đồng đội tỷ khưu A-nhã Kiều-trần-như cùng ông và tứ chúng rằng : Tất cả chúng sinh bị mê hoặc bởi khách trần phiền não nên chẳng được giác ngộ, chẳng chứng quả A La Hán. Lúc đó những ông nhân đâu mà được khai ngộ, thành tựu quả vị thánh ?
*
Rồi A-nhã Kiều-trầ ̀ n-na đứng dậy bạch Phật : Nay hàng trưởng lão trong đại chúng, chỉ riêng con được thương hiệu là Giải. Nhờ ngộ được nghĩa hai chữ khách trần mà thành tựu quả vị .
Bạch Thế Tôn, như người hành khách dừng chân nghỉ lại một quán trọ bên đường để ngủ qua đêm hoặc chỉ ăn một bữa. Khi việc lưu trú hoặc siêu thị nhà hàng đã xong, họ liền sẵn sàng chuẩn bị tư trang lên đường, không ở lại nữa. Nếu họ thật là người chủ thì chẳng phải đi đâu .
Như thế mà suy sét, người chẳng dừng nghỉ lâu gọi là khách, người dừng trụ lâu gọi là chủ. Do không dừng trụ, nên có nghĩa là khách .
Lại như khi mưa vừa mới tạnh, mặt trời lấp lánh lung linh trên cao ; Tia sáng chiếu vào nhà trải qua khe cửa, làm hiện rõ những hạt bụi trong hư không. Bụi trần lay động, còn hư không thì yên lặng .
Thế nên con tâm lý, trong lặng gọi là hư không lay động là trần. Do lay động mà có nghĩa là trầ ̀ n .
Đức Phật bảo : Đúng như thế !
Khi ấy ở trong đại chúng, Như Lai co năm ngón tay lại, co rồi lại mở, mở rồi lại co .
Đức Phật hỏi A-Nan rằng : – Nay ông thấ ́ y gì ?
A-Nan thưa : Con thấy bàn tay bách bảo luân của Như Lai, xoè ra nắm lại giữa hội chúng .
*
Đức Phật bảo A-Nan : Ông thấy tay Như Lai xoè ra nắm lại trong đại chúng. Đó là tay Như Lai xoè ra nắm lại, hay cái thấ ́ y của ông có xoè ra nắm lại ?
A-Nan thưa : Bàn tay báu của Thế Tôn có xoè nắm trong đại chúng. Con thấy bàn tay của Như Lai tự xoè ra nắm lại, chớ chẳng phải tánh thấy của con có xoè nắm .
Đức Phật hỏi : Cái nào động, cái nào tịnh ?
A-Nan thưa : Bàn tay Phật không dừng nghỉ. Còn tánh thấy của con còn chẳng có ý niệm về sự yên tĩnh, làm thế nào còn có động ?
Đức Phật đáp : Đúng như vậy !
Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như Lai phóng ra một đạo hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A-Nan .
A-Nan liền quay đầu qua bên phải để nhìn .
Đức Phật lại phóng hào quang khác qua phía vai bên trái .
A-Nan liền quay đầu về bên trái để nhìn .
Đức Phật bảo A-Nan : Nay đầu ông tại sao lay động ?
*
A-Nan thưa : Con thấy Như Lai phóng đạo hào quang báu chiếu vào vai bên phải rồi vai bên trái của con, nên đầu con tự lay động .
Đức Phật bảo : A-Nan, khi ông nhìn hào quang của Như Lai, đầu ông xoay qua hai bên vai, thì đầu ông động hay cái thấy của ông động ?
A-Nan thưa : Bạch Thế Tôn, chính đầu con động, bởi tánh thấy của con còn không có ý niệm dừng chỉ, làm thế nào có động ?
Đức Phật nói : Đúng như vậy !
Khi ấy Đức Phật lại bảo khắp đại chúng : Giả sử có người khác gọi cái động là trần, cái không dừng trụ gọi là khách. ”
Các ông quan tâm rằng chính đầu của A Nan xê dịch chứ cái thấy không giao động. Các ông cũng chú ý rằng tay Như Lai có co mở, chứ cái thấy không co mở .
Tại sao nay những ông vẫn còn nhận cái động làm thân và nhận những cảnh làm hiện thể ? Nên từ đầu đến cuối, những ông ở trong niệm niệm sinh diệt. Các ông bỏ mất chân tánh, làm những việc điên đảo. Đã đánh mất tâm tánh chân thực rồi, còn nhận vật làm chính mình, nên chính mình bị trôi lăn theo vòng lưu chuyển .
(Kinh Lăng Nghiêm – Hết quyển 1)
4.3 / 5 – ( 9 bầu chọn )
Trang3 Trang4 Trang5 Trang6 Trang7 Trang8 Trang9 Trang10Trang : Trang1 Trang2
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận