Trước tình hình đó, Ban QLDA đã tổ chức lại mô hình phối hợp giữa các nhóm chuyên môn của Ban QLDA/WEC/Tư vấn SL, trong đó vai trò kiểm soát chính là Ban QLDA. Ban QLDA huy động nhân sự có năng lực kinh nghiệm từ Đại học Xây dựng Hà Nội và các đơn vị khác hỗ trợ; trực tiếp làm việc với nhà bản quyền, kiên quyết yêu cầu áp dụng các tiêu chuẩn theo quy định hợp đồng; chủ động đưa ra yêu cầu hoàn thiện CMDR.
Bạn đang đọc: Dấu ấn Nhà máy Đạm Cà Mau
Bên cạnh đó, việc giám sát sản xuất được Ban QLDA tăng cường tối đa. Ban QLDA đã yêu cầu và Tập đoàn đã phê duyệt tăng ngân sách giám sát phong cách thiết kế và kiểm tra sản xuất thiết bị từ 1,6 triệu USD lên 4,2 triệu USD ; dữ thế chủ động trấn áp những tài liệu mua hàng và thông quan, thủ tục thông quan, thử nghiệm thiết bị ; nhu yếu Tổng thầu cử kỹ sư cùng kỹ sư Ban QLDA giám sát sản xuất tại những nhà máy của những nhà sản xuất. Ban QLDA đã tiếp tục yêu cầu chỉ huy Tập đoàn họp giao ban với chỉ huy cao nhất của Tổng thầu để đôn đốc Nhà thầu. Lãnh đạo Ban QLDA đã chỉ huy kỹ sư giám sát của Ban QLDA quản trị ngặt nghèo thiết bị phụ tùng đến công trường thi công đúng nhu yếu mới được cho phép lắp ráp. Đồng thời nhất quyết nhu yếu Nhà thầu vận dụng ứng dụng quản trị quá trình Primavera -, từng bước trấn áp đường găng chính để trấn áp những mốc quá trình thi công chính. Công trường Dự án Nhà máy Đạm Cà Mau – Hình tư liệu Tổng thầu không có kinh nghiệm tay nghề chạy thử nhà máy với quy mô và đặc thù tựa như. WEC thuê 98 chuyên viên chạy thử từ Trung Quốc, Indonesia ( 5 người ) nhưng trong trong thực tiễn sau khi khởi động và quản lý và vận hành những cụm phụ trợ, Nhà thầu đã chuyển giao cho chủ góp vốn đầu tư quản lý và vận hành và lực lượng quản lý và vận hành của chủ góp vốn đầu tư đã trực tiếp chạy thử 2 phân xưởng chính là Ammonia và Urea tạo hạt. Sau khi trực tiếp chạy thử thành công xuất sắc cho ra mẫu sản phẩm vào ngày 29/1/2012, Nhà thầu đã chính thức chuyển giao quyền quản lý và vận hành cho đội ngũ quản lý và vận hành của Nhà máy vào ngày 14/4/2012.
Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước chấp thuận đưa Nhà máy Đạm Cà Mau vào vận hành thương mại vào ngày 23/4/2012 sau khi đã có đầy đủ các văn bản chấp thuận về PCCC, môi trường, giấy phép khai thác nước mặt và xả thải. Ngày 24/4/2012, hoàn thành bàn giao Nhà máy cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam/Công ty TNHH MTV Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC) để vận hành thương mại.
Có thể nói, việc triển khai xong được những mốc quy trình tiến độ của Nhà máy là trách nhiệm vô cùng khó khăn vất vả và là thử thách lớn đặt lên vai những người chỉ huy, những cán bộ, kỹ sư, công nhân của Ban QLDA và Tổng thầu WEC. Chính những chỉ huy nâng cao, nghĩa vụ và trách nhiệm của Ban QLDA và Tổng thầu đã kêu gọi cao độ mọi nguồn nhân lực và thiết bị máy móc khổng lồ, đưa ra những giải pháp đầy trí tuệ, khoa học, kịp thời tháo gỡ những khó khăn vất vả vướng mắc, nhằm mục đích tiềm năng kiến thiết xây dựng Nhà máy Đạm Cà Mau bảo vệ đúng quá trình, bảo đảm an toàn và chất lượng tốt nhất. Vượt qua vô vàn khó khăn, thử thách, Dự án Nhà máy Đạm Cà Mau đã hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả
Đến ngày 26/10/2012, Nhà máy Đạm Cà Mau – nhà máy sản xuất phân đạm urê hạt đục hiện đại nhất Việt Nam hiện nay và là dự án thứ 3 trong chuỗi giá trị Khí – Điện – Đạm của Tập đoàn tại vùng đất Cà Mau chính thức được khánh thành. Ngoài đạt tiến độ và chất lượng theo yêu cầu, dự án đã tiết kiệm trên 150 triệu USD so với tổng mức đầu tư được duyệt. Việc đầu tư xây dựng Nhà máy Đạm Cà Mau không chỉ đáp ứng phần lớn nhu cầu phân đạm của bà con nông dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, góp phần bình ổn nguồn phân bón trên cả nước, mà còn thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về một nhà máy khép kín, hướng đến “xanh hóa” nền công nghiệp của Việt Nam.
Lãnh đạo Tập đoàn kiểm tra Phân xưởng NPK Cà Mau – tháng 7/2020 Nhà máy Đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn urê/năm được xây dựng trên diện tích 52 ha tại địa bàn xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, với tổng mức đầu tư 900,2 triệu USD. Công nghệ được áp dụng cho Nhà máy đều là các công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất hiện nay, bao gồm: Công nghệ sản xuất Ammonia của Haldor Topsoe SA (Đan Mạch); công nghệ sản xuất urê của SAIPEM (Italy); công nghệ vê viên tạo hạt của Toyo Engineering Corp. (Nhật Bản). Hầu hết các thiết bị chính, quan trọng đều có xuất xứ từ EU/G7. Các tiêu chuẩn áp dụng cho nhà máy là các tiêu chuẩn quốc tế (ASME, API, JIS…) và các tiêu chuẩn bắt buộc về môi trường và an toàn, phòng chống cháy nổ của Việt Nam.
T.V
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận