Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương – Tài liệu hướng dẫn cách làm dựa trên dàn ý chi tiết và tham khảo những mẫu bài văn hay phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của tác giả Nguyễn Dữ.
Tóm tắt nội dung bài viết
- Dàn ý phân tích
- Top 2 bài văn phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
- Phân tích Chuyện người con gái Nam Xươngbài số 1
- Phân tích Chuyện người con gái Nam Xươngbài số 2:
- Phân tích Chuyện người con gái Nam Xươngbài số 3 :
- Sơ đồ tư duy phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
- Một số đánh giá và nhận định về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Dàn ý phân tích
Mở bài phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
Bạn đang đọc: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm :+ Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, có nhân cách sáng ngời, sống trong xã hội loạn lạc, chính sách phong kiến thối nát, ông viết sách và để lại 1 số ít thơ và cuốn văn xuôi cổ Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán .
+ Chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thương tâm về cái chết oan khuất của nhân vật Vũ Nương, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ, đồng thời ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong xã hội phong kiến.
Thân bài phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
* Phân tích nhân vật Vũ Nương
– Những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Vũ Nương :+ Vũ Nương là người con gái tính tình đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp+ Vũ Nương lấy người chồng là Trương Sinh tính tình đa nghi, hay ghen nhưng chưa khi nào nàng để vợ chồng bất hòa+ Khi tiễn chồng đi lính : Nàng không màng vinh hiển chỉ mong chồng bình yên quay trở lại, không mong đeo ấn phong hầu chỉ xin mang theo được hai chữ bình yên .+ Cảm thông với những gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng ” Việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường “+ Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung yêu thương chồng tha thiết : ” Nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn nổi “-> Nàng làm trọn bổn phận người phụ nữ tam tòng tứ đức một cách hoàn hảo nhất .+ Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo, một người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực :
- Trong ba năm chồng đi lính, một mình nàng nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng
- Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo: Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình.
- Với con thơ, nàng hết sức yêu thương, chăm chút: chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
– Nỗi oan và cái chết của Vũ Nương :+ Khi chồng quay trở lại nghe lời đứa con nhỏ dại liền nghi oan và trách mắng Vũ Nương+ Nàng đau đớn, tuyệt vọng trước sự đối xử bất công và tàn tệ của chồng+ Vũ Nương lựa chọn cái chết để rửa nỗi nhục -> đây là hành vi kinh khủng nhất chất chứa nỗi vô vọng cay đắng, sự bất lực của thân phận .+ Khi sống dưới thủy cung, nàng vẫn khôn nguôi nhớ về đời sống trần gian+ Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương :
- Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản
- Gián tiếp: người chồng tính tình đa nghi, hay ghen đã cư xử hồ đồ, phũ phàng
- Do ngay từ đầu cuộc hôn nhân không có sự bình đẳng
- Do chiến tranh và lễ giáo phong kiến hà khắc.
=> Vũ Nương tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng lại là nạn nhân của chính sách nam quyền, một xã hội mà hôn nhân gia đình không có tình yêu và tự do, nạn nhân của cuộc chiến tranh phi nghĩa, phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, bảo toàn danh dự .=> Tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên niềm hạnh phúc của con người đồng thời cảm thông thương xót cho số phận xấu số của họ .
* Phân tích nhân vật Trương Sinh
– Vốn con nhà giàu nhưng ít học- Lấy Vũ Nương chỉ vì dung hạnh nên đã đem một trăm lạng vàng đến hỏi nàng- Là người chồng đa nghi, so với vợ phòng ngừa quá mức-> Là hiện thân của chính sách phụ quyền Trung Quốc .- Tính đa nghi, hay ghen của Trương Sinh đã gây ra tấn thảm kịch cho cuộc sống Vũ Nương, ép nàng đến cái chết thương tâm :+ Tin lời con nhỏ, nghi là vợ hư, đem lời mắng nhiếc, đánh đập Vũ Nương+ Bỏ qua mọi lời biện minh của Vũ Nương và khuyên răn của hàng xóm .-> Một người chồng vũ phu, tàn ác, gia trưởng, ghen tuông một cách mù quáng. Tính cách cố chấp, bảo thủ của Trương Sinh phản ánh chính sách nam quyền, trọng nam khinh nữ .- Vô tình bạc nghĩa :+ Vũ Nương vốn dĩ là vợ chàng, người có công phụng dưỡng mẹ già lúc chàng đi lính. Thế nhưng, Trương Sinh đã không mảy may tưởng đến .+ Khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tuy giận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng không thấy, sau đó cũng không cất công tìm thêm nữa .+ Ngay cả khi nhận ra vợ bị oan thì sự ăn năn, hối hận của Trương Sinh cũng rất mờ nhạt .=> Bản chất của Trương Sinh hay cũng chính là thực chất bất công thối nát của xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên số phận con người .
* Ý nghĩa chi tiết cái bóng
– Cái bóng trong câu truyện là cụ thể tạo nên cách thắt nút cho câu truyện :+ Đối với Vũ Nương : trong những ngày chồng ra mặt trận, vì không muốn con thiếu vắng bóng người cha nên vào hằng đêm nàng chỉ vào cái bóng của mình và bảo đó là cha của bé Đản -> Lời nói dối của Vũ Nương với mục tiêu trọn vẹn tốt đẹp .+ Đối với bé Đản : Mới 3 tuổi, còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều phức tạp nên được tin là có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng nít thin thít và không khi nào bế nó .+ Đối với Trương Sinh : Lời nói của bé Đản về người cha khác ( cái bóng ) đã làm nảy sinh sự hoài nghi vợ không thủy chung, nảy sinh thái độ ghen tuông và lấy đó làm dẫn chứng để mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương. -> Hậu quả làm Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng Hoàng Giang để minh oan cho bản thân mình .- Tạo nên mở nút cho câu truyện : Sau khi hiểu ra cái bóng chính là người cha mà bé Đản nhắc tới, Trương Sinh đã hiểu được nỗi oan của vợ .- Nỗi oan ức mà Vũ Nương phải gánh chịu đều được mở màn và hóa giải vì cái bóng .- Cách thắt nút và mở nút bằng chi tiết cụ thể cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức, có giá trị tố cáo so với xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công so với phụ nữ càng thêm thâm thúy hơn .=> Cái bóng là một cụ thể rực rỡ, là một phát minh sáng tạo nghệ thuật và thẩm mỹ độc lạ làm cho câu truyện mê hoặc hơn so với truyện cổ tích .
* Giá trị nội dung và nghệ thuật
Xem thêm: Hôi Chân Nên Và Không Nên Ăn Gì
– Giá trị nội dung+ Giá trị hiện thực : phê phán tố cáo xã hội phong kiến bất công chà đạp lên số phận người phụ nữ, người phụ nữ chịu nhiều oan khuất, bế tắc nhưng không tự bảo vệ được mình+ Giá trị nhân đạo : ca tụng phẩm chất tốt đẹp và thương cảm cho người phụ nữ trải qua hình tượng nhân vật Vũ Nương- Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ+ Xây dựng trường hợp truyện độc lạ đặc biệt quan trọng cụ thể chiếc bóng+ Nghệ thuật kiến thiết xây dựng trường hợp éo le, giật mình mê hoặc, tăng tính thảm kịch của truyện+ Xây dựng thành công xuất sắc nhân vật qua lời nói và hành vi, tích hợp với những hình ảnh ước lệ tượng trưng .Kết bài phân tích Chuyện người con gái Nam Xương- Khái quát giá trị nội dung tác phẩm :
+ Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm xuất sắc góp phần vào tiếng nói chung đòi sự bình đẳng cho người phụ nữ.
+ Truyện thiết kế xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Vũ Nương, biểu lộ niềm xót thương thân phận người phụ nữ xưa và trải qua đó ca tụng phẩm chất son sắc, thủy chung của họ .
>>> Tham khảo thêm nội dung soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương để cảm nhận rõ nét hơn những giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Top 2 bài văn phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
Cùng Đọc tài liệu tìm hiểu thêm 2 bài văn mẫu tinh lọc nhất giúp bạn hiểu và phân tích rõ hơn tác phẩm này :
Phân tích Chuyện người con gái Nam Xươngbài số 1
Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng khoảng, các tập đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ông ra làm quan không lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Tác phẩm xoay quanh số phận và cuộc sống nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái xinh đẹp : “ tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp ”, nàng mang vẻ đẹp tổng lực cả về hình thức và tâm hồn. Nàng là đại diện thay mặt tiêu biểu vượt trội cho vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chi tiết Trương Sinh “ mến về dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về ” càng nhấn mạnh vấn đề, tô đậm hơn nữa vẻ đẹp nhan sắc và phẩm hạnh của nàng .Vũ Nương là người mang trong mình nhiều phẩm chất cao quý. Trước hết, nàng là một người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo, tận tụy với mẹ chồng. Khi chồng đi lính, thân là phụ nữ nhưng nàng đã một mình đứng ra gánh vác việc làm mái ấm gia đình. Mẹ chồng già yếu, nhớ con mà đổ bệnh nàng rất là chăm nom, “ thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn ” mong cho mẹ mau mau khỏi bệnh. Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu thường chỉ mang đặc thù ràng buộc, ông cha ta vẫn thường có câu : “ Trời mưa ướt lá đài bi / Con mẹ, mẹ xót, xót gì con đâu ” hay “ Thật thà cũng thể lái trâu / Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng ” … Nhưng những lời bà mẹ trăng trối sau cuối trước khi mất đã chứng minh và khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành, sâu nặng của Vũ Nương với mẹ chồng. Những lời cảm tạ của bà mẹ đã cho thấy tấm lòng yêu thương hết mực của nàng với bà vì thế bà cũng coi Vũ Nương như con gái của mình vậy. Mấy ai trong xã hội đó lại được lòng mẹ chồng thương mến đến như vậy. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo như cho cha mẹ đẻ của mình. Qua những hành vi đó ta thấy Vũ Nương là nàng dâu rất là nết na, hiếu thảo, tiếng thơm của nàng còn để lại mãi muôn đời .Không chỉ vậy nàng còn là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha. Khi mới cưới, Vũ Nương hiểu rõ chồng mình có tinh đa nghi, hay ghen và hay phòng ngừa quá mức, thế cho nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, để hai vợ chồng không phải chịu cảnh bất hòa. Chính vậy, trong suốt những năm tháng chung sống bên nhau, trước khi Trương Sinh ra trận mái ấm gia đình nàng luôn được sống trong cảnh đầm ấm, niềm hạnh phúc. Ngày Trương Sinh ra trận, tiễn chồng những lời dặn dò không phải công danh sự nghiệp giàu sang mà là “ chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi ”. Ba năm xa chồng, một mình sinh con, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nàng bỏ cả điểm trang, dành tổng thể thời hạn chăm nom mái ấm gia đình, làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ. Ngay cả khi Trương Sinh trở lại hoài nghi nàng thất tiết nàng cũng chỉ biết khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng êm ả mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình .Khi bị chồng nghi oan, mắng nhiếc, đánh đuổi đi, không cho thời cơ giãi bày, lý giải nàng chỉ đau khổ, cố gắng nỗ lực thanh minh mà không hề oán hận với người chồng hẹp hòi, ích kỉ. Được Linh Phi cứu, sống cuộc sống an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng khi nào cũng hướng về quê nhà, về mái ấm gia đình nhỏ bé của mình. Việc nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc thoa về cho chồng cho thấy nàng đầy vị tha, sẵn sàng chuẩn bị tha thứ cho chồng. Khoảng khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc : “ Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể quay trở lại nhân gian được nữa ”. Qua đây ta hoàn toàn có thể thấy, Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ đức hạnh, người con dâu tốt nết mà còn là một người phụ nữ bao dung, giàu lòng vị tha với người chồng đã đẩy đến bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người phụ nữ Nước Ta thảo hiền, đức hạnh .Mặc dù mang trong mình không thiếu những phẩm chất tốt đẹp để được hưởng đời sống êm đềm, niềm hạnh phúc nhưng cuộc sống Vũ Nương lại đầy oan nghiệt, trái ngang. Bắt đầu ngay từ cuộc hôn nhân gia đình của nàng, không có sự đăng đối giữa hai mái ấm gia đình, về phẩm chất giữa hai con người : nàng quy tụ vừa đủ vẻ đẹp phẩm chất : công – dung – ngôn – hạnh, nhưng Trương Sinh lại là kẻ ít học, đa nghi, hay ghen. Lấy chồng không bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, nàng sống trong nỗi đơn độc, khó khăn vất vả : gánh vác việc mái ấm gia đình, nuôi dạy con thơ và chăm nom mẹ già ; nỗi nhớ chồng, lo ngại cho chồng nơi biên ải tha thiết đêm ngày. Đến khi chồng về lại phải gánh nỗi oan lạ, oan thất tiết mà không có thời cơ tìm hiểu và khám phá nguyên do. Cuối cùng nàng đã phải lấy cái chết để chứng tỏ tấm lòng thủy chung, trong sáng của mình. Đây là phản ứng kinh hoàng và kinh khủng của Vũ Nương để bảo vệ nhân phẩm cũng như cho thấy nỗi xấu số tột cùng của nàng. Dù sống bất tử dưới thủy cung nhưng nàng không hề niềm hạnh phúc, bởi niềm hạnh phúc thực sự của con người là ở trần gian, được chung sống, được hưởng không khí đầm ấm của mái ấm gia đình. Nhưng điều ấy so với nàng mãi mãi không hề làm được nữa. Thân ở thủy cung, lòng lại một mực hướng về dương gian, nơi có chồng, có con khiến cho nỗi xấu số của nàng càng được đậm tô hơn nữa. Vũ Nương là tiêu biểu vượt trội cho phận bạc của biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn ác, nặng nề lễ giáo phong kiến .Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không hề quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình đến chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, ít học, tính tình cọc cằn, hay ghen. Cũng bởi do ít học nên khi cuộc chiến tranh xảy ra anh ta là người tiên phong trong list đi lính. Cũng bởi tính đa nghi, hay ghen đã làm cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con ngây thơ không chịu nghe lời phân trần của vợ. Chính Trương Sinh là người đã trực tiếp đẩy Vũ Nương phải tìm đến cái chết. Khi hiểu ra mọi chuyện thì đã quá muộn màng. Trương Sinh phải ôm nỗi ân hận, nỗi đau trong suốt phần đời còn lại. Trương Sinh chính là đại diện thay mặt tiêu biểu vượt trội cho những người đàn ông vũ phu, những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt đã đẩy người phụ nữ rơi vào thảm kịch .Tác phẩm đã thiết kế xây dựng được trường hợp truyện độc lạ, chi tiết cụ thể mang tính thắt nút, đẩy câu truyện lên cao trào, đình điểm : cái bóng là mấu chốt của câu truyện, là cụ thể thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện rực rỡ : dẫn dắt trường hợp phải chăng. Kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo. Nghệ thuật thiết kế xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn, nhân vật được miêu tả nội tâm khá phong phú và đa dạng. Những yếu tố đó góp thêm phần tạo nên sự thành công xuất sắc cho tác phẩm .
Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm là tiếng nói cảm thương cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời cũng lên án tố cáo xã hội nam quyền và chiến tranh phi nghĩa đã tước đoạt hạnh phúc và đẩy con người đến bước đường cùng.
Nghe bài văn Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương do Đọc tài liệu thực hiện:
Phân tích Chuyện người con gái Nam Xươngbài số 2:
Nguyễn Dữ là một gương mặt tiêu biểu điển hình cho nền văn học trung đại Việt Nam ở thế kỉ thứ XVI. Mặc dù, sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Dữ chỉ vẻn vẹn có tập truyện “Truyền kì mạn lục” nhưng tập truyện lại có một vị trí đặc biệt, được đánh giá là “thiên cổ kì bút” (bút lạ nghìn đời), “là áng văn hay của bậc đại gia”. Đây là tập truyện viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16, trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Thông qua bi kịch Vũ Nương, truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn độc đáo, đánh dấu sự thành công về nghệ thuật dựng truyện; khắc họa miêu tả nhân vật và sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình, giữa yếu tố hiện thực và kì ảo.
Trước hết, ” Chuyện người con gái Nam Xương ” đã khắc họa thành công xuất sắc vẻ đẹp truyền thống lịch sử và số phận oan nghiệt của người phụ nữ đương thời. Điều này được biểu lộ qua thẩm mỹ và nghệ thuật dựng truyện và xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện thay mặt cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời kì phong kiến : ” tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp “. Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về làm vợ. Sau đó, nhà văn tập trung làm điển hình nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều thực trạng, trường hợp và những mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản, từ đó góp thêm phần thể hiện toàn vẹn tính cách, phẩm hạnh của nàng .Đầu tiên là Vũ Nương trong mối quan hệ với người chồng – Trương Sinh. Nàng hiện lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Trong đời sống vợ chồng thông thường, khi mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồng có thói đa nghi, thường đề phòng vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khôn khéo, đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép, không khi nào để xảy ra nỗi bất hòa trong mái ấm gia đình. Vì thế, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất đức hạnh. Khi người chồng sẵn sàng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy nghĩa tình, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về hai chữ ” bình yên “. Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi lần thấy ” bướm lượn đầy vườn, mây trùm kín núi ” nàng lại cảm thấy ” thổn thức tâm tình “, nhớ thương chồng nơi biên ải xã xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định chắc chắn khi nàng bị chồng nghi oan : ” cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót … “. Khi Trương Sinh đi lính trở lại, một mực khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu, nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định chắc chắn một lòng nhất mực thủy chung, son sắt với chồng. Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng ” đừng nghi oan cho thiếp “. Có nghĩa là Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn niềm hạnh phúc mái ấm gia đình đang có rủi ro tiềm ẩn tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng niềm hạnh phúc mái ấm gia đình mà mình đang có và càng làm điển hình nổi bật lên niềm khát khao hướng tới niềm hạnh phúc mái ấm gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương .Tiếp đến, Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng và bé Đản. Nàng hiện lên là một người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lí, yêu thương con cháu. Chồng đi lính, ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một nguời mẹ, lại vừa đóng vai trò là một nguời cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường mà bảo là cha Đản. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm của một người con hiền, dâu thảo : chăm nom, thuốc thang, lễ bái thần Phật, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức triển khai ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình vậy. Vì thế, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng tỏ cho lòng hiếu thảo của cô con dâu : ” Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ “. Điều đó đã cho thấy nhân cách tuyệt vời và công lao to lớn của Vũ Nương so với mái ấm gia đình nhà chồng này .Như vậy, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy chung và hết lòng vun vén, trân trọng niềm hạnh phúc mái ấm gia đình như vậy, đáng lẽ ra phải được hưởng niềm hạnh phúc toàn vẹn, tìm được một người chồng tâm lí, cảm thông và sẻ chia những nỗi lo toan cho vợ, nhưng thật éo le và nghịch lí thay, nàng lại phải chịu một đời sống mái ấm gia đình xấu số và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt. Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận cha, nghe lời nói của con ” Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, những chẳng khi nào bế Đản cả “, Trương Sinh nhất nhất cho rằng ” vợ hư “. Mặc dù Vũ Nương đã tìm cách để lý giải lại thêm họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng nhưng mối hoài nghi vợ của Trương Sinh ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được. Cuối cùng ” cái nụ cười nghi gia nghi thất ” đã không còn ” bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió “, cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá cũng không còn hoàn toàn có thể được nữa ” đâu còn hoàn toàn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa “. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành vi kinh khủng để bảo toàn danh dự, nhân phẩm trong một nỗi đau vô vọng cùng cực, đau đớn .Vậy đâu là nguyên do dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết là do chi tiết cụ thể cái bóng và những lời nói ngây thơ của bé Đản. Nhưng nguyên do sâu sa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã trình làng Trương Sinh là ” con nhà hào phú nhưng không có học “, lại có tính đa nghi, so với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay ấp má kề với mình. Đó chính là mầm mống của thảm kịch để rồi trong thực trạng đi lính ba năm xa nhà, xa vợ, thói ghen tuông, ích kỉ của bản thân chàng nổi lên và giết chết người vợ của mình. Đồng thời, chính sách phong kiến khắc nghiệt, nam quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, được cho phép người đàn ông hoàn toàn có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên tiếng, không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có ” họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho ” … Tất cả đã đẩy Vũ Nương – người phụ nữ đẹp đương thời vào con đường thảm kịch, phá vỡ đi những niềm hạnh phúc mái ấm gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào con đường cùng không lối thoát .Cũng cần nói thêm, sự thành công xuất sắc của ” Chuyện người con gái Nam Xương ” còn được biểu lộ ở chỗ, Nguyễn Dữ đã khôn khéo dẫn dắt câu truyện trên cơ sở diễn biến có sẵn, ông đã xắp xếp lại, tô đậm, thêm bớt làm cho câu truyện trở nên sinh động, mang tính kịch và tăng cường tính thảm kịch. Có thể nói, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, ” Chuyện người con gái Nam Xương ” đã có sự thành công xuất sắc vượt bậc so với bản kể dân gian ” Vợ chàng Trương “. Điều này được bộc lộ qua chi tiết cụ thể chiếc bóng và lời nói của bé Đản. Từ đó, tạo nên sự thắt nút và mở nút của câu truyện, làm câu truyện trở nên mê hoặc, diễn biến hấp dẫn, ngặt nghèo. Đầu tiên là ” thắt nút ” câu truyện : chỉ một câu nói ngây thơ của một đứa trẻ lên ba nói với cha mà như một cơn bão dây chuyền sản xuất, đã tạo nên biết bao nhiêu là giống lốc cuộc sống, lật nhào hết toàn bộ mọi sự bình yên thủa trước. Để rồi, trong một chốc nóng giận, thói nghi kị trong lòng người đàn ông độc đoán, chuyên quyền đã phá vỡ đi niềm hạnh phúc yên ấm mà mình đang có ; đẩy cuộc sống của người phụ nữ đẹp người, đẹp nết vào cái chết thương tâm, thấm đẫm nước mắt. Và cũng thật giật mình thay, câu truyện lại được ” gỡ nút ” bằng một câu nói trẻ thơ non dại. Khi thấy cái bóng của Trương Sinh in trên vách, bé Đản liền nói : ” Cha Đản lại đến kia kìa ! ” thì bao nhiêu oan khuất lại được lật nhào sáng tỏ. Vũ Nương vô tội !Bên cạnh đó, truyện còn thành công xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật và thẩm mỹ đối thoại, lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu truyện trở nên sinh động, góp thêm phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật : lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương khi nào cũng chân thành, dịu dàng êm ả, mềm mỏng, có lí, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, ngay thật .Cuối truyện, Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ tỏa nắng đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất. Đây là những chi tiết cụ thể, hình ảnh bộc lộ sự phát minh sáng tạo của Nguyễn Dữ về mặt cấu trúc truyện bằng việc sử dụng yếu tố kì ảo, hoang đường, góp thêm phần tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, làm ra đặc trưng của thể loại truyền kì. Nếu như trong truyện kể dân gian, sau khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tỉnh ngộ, nhận ra sai lầm đáng tiếc của mình thì cũng là lúc truyện cổ tích khép lại, điều đó đã để lại niềm xót xa đau đớn cho người đọc về thân phận xấu số oan khiên của người phụ nữ tiết hạnh, thì trong ” Chuyện người con gái Nam Xương ” của Nguyễn Dữ, ông đã phát minh sáng tạo thêm phần đuôi của truyện, góp thêm phần làm lên những giá trị thẩm mĩ và tư tưởng mới của truyện. Đó là làm hoàn thành xong thêm nét đẹp tính cách, phẩm chất của nhân vật và chứng tỏ được Vũ Nương trong sáng. Ở quốc tế bên kia, nàng được đối xử xứng danh với phẩm giá của mình. Vì thế, Nguyễn Dữ đã cung ứng được tham vọng của con người về sự bất tử, sự thắng lợi của cái thiện, cái đẹp, bộc lộ nỗi khát khao niềm hạnh phúc trong một đời sống công minh, niềm hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt quan trọng là người phụ nữ đương thời .Tóm lại, ” Truyền kì mạn lục ” nói chung và ” Chuyện người con gái Nam Xương ” nói riêng của Nguyễn Dữ là một tác phẩm độc lạ, ghi lại một bước tăng trưởng đột khởi của nền văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn học trung đại Nước Ta. Tác phẩm đã đạt được thành tựu nghệ thuật và thẩm mỹ điển hình nổi bật trên ba phương diện : thiết kế xây dựng diễn biến, cấu trúc ; thiết kế xây dựng nhân vật ; sự phối hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo. Thông qua cuộc sống và số phận xấu số của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh số phận bi thương của người phụ nữ phong kiến, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đồng thời, bộc lộ thái độ phê phán so với một xã hội phi nhân đã gây ra biết bao khổ đau cho con người. Mặc dù truyện cũng cách xa tất cả chúng ta vài thế kỉ rồi nhưng tính thời sự của truyện vẫn còn vang vọng tới ngày thời điểm ngày hôm nay !
>>> Đọc thêm văn mẫu hay: Các đề văn về Chuyện người con gái Nam Xương
Phân tích Chuyện người con gái Nam Xươngbài số 3
:
“ Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hươngMiếu ai như miếu vợ chàng Trương. ”( Lê Thánh Tôn )Từ một câu truyện có thật trong nhân gian về một nỗi oan khuất của một người thiếu phụ, Nguyễn Dữ đã viết nên “ Chuyện người con gái Nam Xương ”. Đó là tác phẩm văn xuôi trong Truyền Kỳ mạn lục, phản ánh hiện thực xã hội, biểu lộ tham vọng nhân đạo sự nhân đạo, ca tụng về phẩm chất của người phụ nữ Nước Ta .Câu chuyện phản ánh sinh động về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chuyện kể về nàng Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thuỳ mị nết na, tư dung tốt đẹp nhưng lấy phải người chồng là Trương Sinh – vốn là con nhà giàu nhưng thất học và có tính đa nghi. Ít lâu sau, cuộc chiến tranh loạn lạc diễn ra, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, nàng hạ sinh được một đứa con trai đặt tên là Đản. Nàng ở nhà nuôi con và phụng dưỡng mẹ chồng. Rồi người mẹ chồng cũng qua đời, nàng lo ma chay tử tế. Hết cuộc chiến tranh, Trương Sinh trở về bồng con ra thăm mộ mẹ. Chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chàng quay về nhục mạ và đuổi nàng đi vì cho rằng nàng không chung thủy. Vì nỗi oan không được giải bày, nàng nhờ dòng sông Hoàng Giang rửa sạch mối oan tình. Sau chàng hiểu nỗi oan của vợ nhưng tổng thể đã muộn màng .Chuyện đã phản ánh hiện thực xã hội đầy bất nhân oan trái. Chính cuộc chiến tranh loạn lạc, chính xã hội bất công đã gây nên thảm kịch về cuộc sống nàng. Ngày chồng quay trở lại cứ tưởng mọi sự đền bù sau bao ngày tháng nhớ nhung được đền đáp như vậy đó lại là thảm kịch của cuộc sống nàng diễn ra. Vì thói “ gia trưởng nam quyền ”, Trương Sinh đã gạt ngoài những lời biện bạch của vợ. Đó là sự bất công nghiệt ngã của xã hội phong kiến. Quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ không được tôn trọng. Trương Sinh vì nguyên do ghen tuông – đó là chuyện thông thường trong đời sống đôi lứa, thế nhưng ta phải lên án Trương Sinh vì thói “ gia trưởng ” mà không nghe lời biện bạch của vợ dẫn đến cái chết đầy oan khốc của Vũ Nương. Đồng thời, câu truyện cũng lên án cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực tối cao của những tập đoàn lớn phong kiến đã gây nên cảnh chia lìa đôi lứa, gián tiếp gây ra cái chết của Vũ Nương. Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội đương thời đầy bất công oan trái kia đã đẩy bao con người nhất là phụ nữ vào những con đường không lối thoát. Một nàng Vũ Nương vì nỗi oan không được giải bày đã nhờ sông Hoàng Giang rửa sạch oan tình, một nàng Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đánh đổi mười lăm năm trường khổ nhục hay một Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu một đời đau khổ. Tất cả là đều do cái xã hội phong kiến nghiệt ngã kia đã tạo ra .Không những vậy, trong “ Chuyện người con gái Nam Xương ”, Nguyễn Dữ đã tôn vinh lòng nhân đạo, những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Nước Ta. Dù dòng đời bao biến chuyển, dù xã hội bất công oan trái nhưng những phẩm chất đó vẫn bí mật tỏa sáng. Vũ Nương – một cô gái thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp, quy tụ khá đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nước Ta. Ngay cả khi lấy chồng, nàng vẫn biết tính tình không hòa hợp nhưng “ cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để khi nào vợ chồng phải bất hòa ”. Nhưng sum vầy chưa được bao lâu, chồng ra trận. Nàng ở nhà thủ tiết chờ chồng, nuôi dưỡng con cháu và phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo. Ngay cả trước khi qua đời, mẹ chồng nàng đã nói : “ … xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như đã chẳng phụ mẹ ”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng dâu so với mẹ chồng trong xã hội phong kiến có lẽ rằng ta ít thấy. Ông bà ta từ thời xưa đã dùng cụm từ “ mẹ chồng nàng dâu ” để nói lên sự nghiệt ngã trong quan hệ đó. Thế nhưng so với tấm lòng của Vũ Nương, người mẹ chồng rất là cảm động và khẳng định chắc chắn rằng “ sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức … ”. Nhớ lại ngày tiễn chồng ra trận nàng có nói “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi … ”. Một cô gái con nhà nghèo như nàng mà lại thốt lên những lời như vậy quả thật hiếm thấy. Nàng không cần áo gấm, không cần phong hầu chỉ cần một mái nhà ấm cúng niềm hạnh phúc. Nguyễn Dữ viết đến đây để người đọc thấy được nỗi niềm khát vọng rất là đơn sơ mà bao người cầu mong không có. Nhưng đến ngày chồng trở lại, là ngày thảm kịch của đời nàng, chỉ vì thói ghen tuông mù quáng đã đẩy nàng đến cái chết oan nghiệt. Vũ Nương đã khóc mà nói rằng : “ Thiếp sỡ dĩ phụ thuộc vào chàng, vì có nụ cười nghi gia nghi thất. Này bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn hoàn toàn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa ”. Nếu như người phụ nữ ẵm con mang theo nỗi buồn sâu thẳm để chờ chồng rồi hóa đá thì nàng Vũ Nương không hề biện minh cho mình nên đã nhờ dòng sông Hoàng Giang rửa sạch oan khiên. Trước khi nàng tự tử, nàng ngửa mặt lên trời cao để phân trần cùng trời đất “ Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ … Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ”. Nàng đã nêu hậu quả của mình nếu không lòng trinh tiết chờ chồng để minh oan với trời đất. Đắng cay đến thế ! Một người vợ thủy chung, một người con dâu ngoan hiền như người mẹ chồng đã nói lúc lâm chung “ xanh kia quyết chẳng phụ con … ”, thế mà nàng phải mượn dòng nước Hoàng Giang cuốn trôi nỗi đau đời .Trong “ Chuyện người con gái Nam Xương ”, Nguyễn Dữ đã thiết kế xây dựng một quốc tế thuỷ cung đầy ắp nghĩa tình. Phan Lang – người làm Đầu mục ở bến đò Hoàng Giang – đêm nằm mộng thấy cô gái áo xanh xin cứu mạng. Sáng hôm sau chàng được người phường chài biếu con rùa xanh, liền đem thả. Sau cũng nhờ con rùa đó – là Linh Phi hoàng hậu cứu giúp mà Phan Lang thoát khỏi nguy hại. Nguyễn Dữ đã phát minh sáng tạo thêm quốc tế thủy cung đầy ân tình thủy chung, vừa tạo nét ly kỳ mê hoặc hấp dẫn cho câu truyện, đồng thời cũng biểu lộ tham vọng nhân đạo cao đẹp. Một người chung Thủy, hiền thục như Vũ Nương phải được trân trọng. Đó chính là khát vọng về quyền được sống của phụ nữ trong xã hội phong kiến .Nguyễn Dữ đã triển khai thành công xuất sắc khi thiết kế xây dựng nghệ thuật và thẩm mỹ rực rỡ trong câu truyện. Một số yếu tố li kì và hoang đường trong câu truyện vẫn không làm mờ nhạt giá trị hiện thực, nhân đạo mà còn làm tăng lên khát vọng về quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ. Người đọc thật sự giật mình vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ, sửng sốt thương tâm trước cái chết của Vũ Nương, cũng như bàng hoàng khi đứa trẻ chỉ vào vách và nói : “ Cha Đản đến kia kìa ”. Thì ra nguyên do của nỗi đau khổ, nỗi oan ức của một con người và cả sự tan nát của một mái ấm gia đình vì một “ cái bóng ” trong lời trẻ con. Chi tiết cái bóng là nét nhấn độc lạ, là đỉnh điểm của câu truyện. Cái bóng ấy, là hình tượng của sự thủy chung son sắt, là tấm lòng kiên trung, một mực yêu thương chồng. Dẫu cuộc chiến tranh có chia cắt hai người, nhưng trong lòng Vũ Nương, hình ảnh Trương Sinh vẫn luôn hiện hữu như hình với bóng không rời nhau. Cách thiết kế xây dựng diễn biến độc lạ tạo sự hấp dẫn cho người đọc. Một mái ấm gia đình mỗi người một tính cách : Vũ Nương hiền thục, chung Thủy và cam chịu, Trương Sinh nóng nảy đa nghi và đứa con thì vô tư dẫn đến cái bi đát của nó. Truyện phối hợp giữa hiện thực và hoang đường tạo nên sự li kì cho người đọc .Truyện kết thúc với hình ảnh Vũ Nương thoắt ẩn thoắt hiện gây cho ta những ý nghĩ và cảm hứng mênh mang. Câu chuyện quả là bi thảm, đặc biệt quan trọng với số phận của Vũ Nương. Kết thúc ấy làm lòng ta chợt quặn lên thương xót. Thương xót chính bới Vũ Nương đoan trang, tiết hạnh là thế, chung thủy là thế, vậy mà phải chịu vết nhục phải tự tử để rửa sạch và chỉ đến khi Trương Sinh hiểu được thực sự, lập đàn giải oan thì đã quá muộn màng. Phải chăng số phận của Vũ Nương cũng chính là số phận bi đát của những người phụ nữ thời phong kiến. Số phận ấy mong manh như ngọn nến trước gió, sẵn sàng chuẩn bị phụt tắt bất kỳ khi nào. Vũ Nương, Thúy Kiều … và biết bao số phân thật buồn thảm phụ nữ vẫn mãi đi vào ngõ tối. Cách mạng tháng Tám là cuộc tái sinh màu nhiệm đã mang đến cho người phụ nữ ngọn “ gió mới ngàn phương ”, “ một vườn đầy xuân ” .- / -Thông qua 2 bài văn mẫu phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương ở trên ta càng hiểu rõ số phận oan nghiệt của người phụ nữ đương thời như thế nào. Mặt khác, để lưu lại tài liệu giúp nắm chắc và ghi nhớ những nội dung chính, xem sơ đồ tư duy sau :
Sơ đồ tư duy phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
Xem thêm: Trị Viêm Lợi Tại Nhà Hiệu Quả
Một số đánh giá và nhận định về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
” Hạnh phúc trong cuộc sống Vũ Thị Thiết là một thứ niềm hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói và ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn. “( Nhà phê bình Đồng Thị Sáo )
Vậy là Đọc Tài Liệu đã vừa gửi đến các em những gợi ý chi tiết cho cách làm và dàn ý phân tích Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Dựa vào việc tham khảo gợi ý này cùng với hai bài văn mẫu kèm theo, hi vọng các em sẽ có thể tự viết được một bài văn phân tích hay và đủ ý. Chúc các em học tốt môn Văn khi tham khảo tại Văn mẫu 9 !
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận