Tài liệu hướng dẫn phân tích hình tượng sông Đà do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm gợi ý cách làm chi tiết và tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích hình tượng con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Tóm tắt nội dung bài viết
- Hướng dẫn phân tích truyện Làng của Kim Lân
- 1. Phân tích đề
- 2. Hệ thống vấn đề
- 3. Lập dàn ý chi tiết cụ thể
- * Đặc sắc nghệ thuật và thẩm mỹ
- 4. Sơ đồ tư duy phân tích truyện ngắn Làng
- 5. Kiến thức lan rộng ra
- Tham khảo 1 số ít bài văn mẫu hay phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân
- Phân tích Làng của Kim Lân mẫu số 1:
- Nghe bài phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân hay nhất
- Phân tích Làng của Kim Lân mẫu số 2:
- Phân tích Làng của Kim Lân mẫu số 3:
Hướng dẫn phân tích truyện Làng của Kim Lân
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân.
Bạn đang đọc: Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân
1. Phân tích đề
– Yêu cầu đề bài : phân tích nội dung truyện ngắn Làng .
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm Làng của Kim Lân.
– Phương pháp lập luận chính : phân tích .
2. Hệ thống vấn đề
– Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện
– Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai
+ Ở nơi tản cư, ông Hai luôn nhớ về cái làng của mình ;+ Ông Hai liên tục theo dõi tin tức kháng chiến ;+ Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng mình theo Tây ;+ Tâm trạng ông Hai khi lời đồn thổi được cải chính .
>>> Tham khảo thêm hướng dẫn soạn bài Làng của Kim Lân để định hướng tốt những ý chính cần phân tích.
3. Lập dàn ý chi tiết cụ thể
a) Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm :+ Kim Lân thuộc lớp những nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân .
+ Làng (1948) đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.
b) Thân bài
* Khái quát về tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948 – thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
– Nội dung diễn biến : Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình cho nên vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định hành động ở lại làng làm du kích, làm người trẻ tuổi chống giặc dù tuổi đã cao. Nhưng vì thực trạng mái ấm gia đình ông buộc phải tản cư lên thị xã Hiệp Hòa. Thế rồi một hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào .
* Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện
– Tình huống : Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc-> Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với tâm lý về một làng quê “ niềm tin cách mạng lắm ” của ông .- Ý nghĩa của trường hợp : Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật biến hóa can đảm và mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai .
* Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai
– Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng+ Ông khoe về làng : giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, trào lưu cách mạng diễn ra sôi sục, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre …+ Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử dân tộc .- Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng .+ Ông khoe về niềm tin cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào .- Diễn biến tâm trạng ông Hai :+ Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc .
- Ông yêu làng, tự hào về làng, hay khoe làng.
- Ông tin tưởng vào thắng lợi cuộc kháng chiến do Chính phủ và Cụ Hồ lãnh đạo.
- Nhớ làng da diết, muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến.
- Mong nắng cho Tây chết.
- Ham theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi.
=> Ông Hai là người nông dân có tính tình vui tươi, chất phác, có tấm lòng gắn bó với làng quê và cuộc kháng chiến .+ Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc :
- “cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”, ông lặng đi tưởng như không thở được -> ông sững sờ, xấu hổ, uất ức
- Hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi lẳng lặng bỏ đi trong nỗi đau đớn và nhục nhã
- Bên tai ông đầy rẫy tiếng chửi bọn Việt gian, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi
- Về nhà, ông nằm vật ra giường, đêm đó trằn trọc không ngủ được.
- Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi khóc.
- Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài
- Khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi đi: ông bế tắc, tuyệt vọng.
- “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”
-> Tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt và mặc cảm với thân phận là người của làng Việt gian bán nước .=> Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ, tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Đau khổ tột cùng như vậy nhưng tấm lòng thủy chung, son sắt với cuộc kháng chiến thì vẫn không hề biến hóa .+ Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính :
- “cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”
- Ông đi từ đầu làng tới cuối làng để khoe tin làng mình không theo giặc
- Ông tìm gặp ông Thứ để thanh minh về làng mình, kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu
- Ông khoe cả việc nhà ông bị Tây “đốt sạch” một cách sung sướng, hả hê -> minh chứng rõ nhất cho việc làng ông không phải Việt gian bán nước.
=> Niềm vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, qua đó biểu lộ tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai .=> Ông Hai từ một người nông dân yêu làng đã trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu vượt trội của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp .
* Đặc sắc nghệ thuật và thẩm mỹ
– Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn lời nói của người nông dân- Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai ( ngôi thứ 3 )
– Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
Xem thêm: Trị Viêm Lợi Tại Nhà Hiệu Quả
– Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân thiện đôi lúc dí dỏm của nhân vật .- Miêu tả rất đơn cử, quyến rũ những diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn từ đối thoại và độc thoại .
c) Kết bài
– Khẳng định lại giá trị nội dung, thẩm mỹ và nghệ thuật của truyện .
4. Sơ đồ tư duy phân tích truyện ngắn Làng
5. Kiến thức lan rộng ra
– Hoàn cảnh lịch sử dân tộc sinh ra truyện :+ Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân Pháp lật lọng, liên tục đưa quân sang tái xâm lược nước ta .+ Năm 1946, chính phủ nước nhà cách mạng đưa ra lời lôi kéo toàn nước kháng chiến. Trong thời kì này, chủ trương của chính phủ nước nhà lôi kéo nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để tất cả chúng ta cùng kháng chiến lâu bền hơn .+ Ở tiến trình đầu, nhiều người dân còn hoang mang lo lắng so với chủ trương của Ủy ban kháng chiến và con đường cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí Minh .
=> Để trình bày những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời cổ vũ tinh thần cách mạng, Kim Lân đã viết truyện ngắn Làng.
Tham khảo 1 số ít bài văn mẫu hay phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân
Phân tích Làng của Kim Lân mẫu số 1:
Quê hương là chùm khế ngọtCho con trèo hái mỗi ngàyQuê hương là cầu tre nhỏCon về rợp bướm vàng bay .
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Quê hương trong tâm khảm mỗi người là nơi thân thương nhất, bình dị nhất. Tình yêu quê hương vì thế luôn là một chủ đề xuyên suốt trong văn học. Truyện ngắn Làng cũng nằm trong mạch nguồn cảm xúc ấy. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Truyện đã khắc họa nhân vật ông Hai – một lão nông cần cù, chăm chỉ, mang nặng lòng yêu làng, yêu kháng chiến.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý quan tâm hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt hạng sang, không có lấy một hạt thóc đất .Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc lạ, có bề dày lịch sử dân tộc. Nhưng khi cách mạng thành công xuất sắc, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm đáng tiếc của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự chiến lược có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào, … lắm khu công trình không để đâu hết. Chính cái trường hợp ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo toàn bộ nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc sống và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi ” chôn rau cắt rốn ” của mình trở thành một truyền thống lịch sử và tâm lí chung của mọi người nông dân thời giờ đây. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn thuần, nhỏ : cây đa, giếng nước, sân đình … và nâng cao lên đó chính là : tình yêu quốc gia. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : ” lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc ” .Tình yêu làng của ông Hai càng được bộc lộ rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông luôn nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu toàn bộ những gì thân thiện, độc lạ của làng. Ông yêu những giờ phút niềm hạnh phúc được cùng bạn bè đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ tình yêu làng nồng cháy ấy, truyền thống lịch sử ấy, ông đến với Cách mạng từ khi nào, từ khi nào mà chính ông cũng không hay biết. Ông tham gia tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông tin nghe đọc báo. Hôm ấy, ông nghe được bao nhiêu là tin hay : “ Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa ”, “ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn ở đầu cuối ” ; “ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. Chao ôi ! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên. Đến đâu, ông cũng thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về niềm tin kháng chiến của làng. Sau Cách mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không còn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công xuất sắc đã đưa đến cho người nông dân những nhận thức mới, tâm lý mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai .Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai : đó là cái tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Hôm ấy, ông vừa bước ra khỏi phòng thông tin thì nghe được cái tin ấy từ miệng người đàn bà tản cư khiến ông lão : “ lặng người đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi. Ông Hai vô cùng bàng hoàng trước cái tin ấy. Thế rồi ông rơi vào tột cùng của sự đau đớn, ông cố lê những bước chân chậm rãi về nhà. Những ngày sau đó, ông chỉ ru rú ở trong nhà, không dám đi đâu cả, ở đâu ông cũng được thể hiện rõ nét. Đầu tiên, ông về nhà và không dám đi đâu cả, chỉ ở nhà một mình, giọng nói chua lanh lảnh của người đàn bà tản cư kia lại cứ văng văng trong tâm lý ông mãi : ” Đói khổ đánh cắp ăn trộm, bắt được người ta còn thương chứ cái giống Việt gian bán nước ấy thì cứ cho mỗi đứa một nhát “. Chao ôi ! Sao lại có chuyện ấy được, chẳng lẽ lại là thực sự, nhìn lũ con thơ, tủi thân, nước mắt ông lão cứ thế tràn ra : ” Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ; Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu … “. Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình chuyện trò với mình, lúc thì ông bảo không phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại thấy điều đó là thực sự thì hợp lý hơn : ” Không có lửa làm thế nào có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo ra những chuyện ấy làm gì ? Chao ôi ! Cực nhục chưa ? Khắp cái nước Nước Ta này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước … “. Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn biến hóa, luôn có hai quan điểm trái chiều nhau. Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như vậy đấy, đâu dám đơn sai : “ Các chiến sỹ biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông ”. Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa những người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một quyết định hành động cao đẹp. ” Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù “. Đó là một hành vi cao đẹp của ông Hai – một người dân yêu nước. Cuối cùng, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng, ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước chuyển biến mới trong tư tưởng tình cảm của người nông dân Nước Ta buổi giao thời mới – cũ .Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi vào sư hả hê sung sướng, niềm hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí còn ông khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, cụ thể cho bác Thứ nghe về trận đánh hôm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng tất cả chúng ta đánh được bao nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự thế nào, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy. Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự đổi khác rõ ràng, từ trường hợp đổi khác mà con người cũng thay đổi, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang hả hê sung sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của nghệ thuật và thẩm mỹ thiết kế xây dựng tình, huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật so với một tác phẩm văn học .Quê hương là hình ảnh không hề phai mờ trong thơ ca. Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng viết : ” Lòng yêu làng quê trở thành tình yêu quốc gia ”. Kim Lân đã đưa được thông điệp ấy đến với người đọc trải qua trường hợp truyện giật mình, gay cấn và nội tâm nhân vật biến hóa giật mình, tương thích. Đó là nét đẹp mới của người nông dân, hòa quyện tình yêu với làng quê thân yêu. Ông Hai là tiêu biểu vượt trội của người nông dân Nước Ta buổi giao thời mới – cũ .>> > Đọc thêm : Tuyển chọn những đề văn về truyện ngắn Làng của Kim Lân
Nghe bài phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân hay nhất
Phân tích Làng của Kim Lân mẫu số 2:
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8 .
Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông dân Việt Nam ta trong những ngày đầu chống Pháp. Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu dc sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái trường hợp ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tổng thể nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc sống và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “ chôn rau cắt rốn ” của mình trở thành một truyền thống lịch sử và tâm ý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn thuần, nhỏ : cây đa, giếng nước, sân đình … và nâng cao lên đó chính là : tình yêu quốc gia. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : “ lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc “. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo Tây. Cổ ông lão “ nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân ” ông lão lặng đi, tưởng như không hề thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây : “ chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ”. Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho mái ấm gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra dự tính : “ hay là quay về làng ? ” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì : “ làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù. ”
Có thể nói với ông Hai, làng và nước bây giờ đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước được ông Hai đặt lên trên hết. Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trang nhân vật như vậy. Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như là để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: “con ủng hộ ai?”. Thằng bé giơ tay mạnh bạo và rành rọt: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Cái lòng của bố con ông là thế đấy “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc. Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: “Bác Thứ đâu rồi ! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết ! Toàn là sai sự mục đích cả”. Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của ông bị đốt. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choán hết lấy tâm trí ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch. Quả thật, Kim Lân rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ thuật xây xựng truyện ngắn Làng, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dung sai: “Bác Thứ đâu rồi… Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục đích cả”.
Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục, và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đốt cháy một cách vui sướng, hả hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc truyện ngắn Làng giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã dành được thắng lợi vẻ vang.
Phân tích Làng của Kim Lân mẫu số 3:
Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trong báo Văn nghệ năm 1948. Truyện ca ngợi tình yêu làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai, môt nông dân phải xa làng đi tản cư. Qua đó ta cũng cảm nhận được tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp.
Truyện Làng khai thác một tình cảm bao trùm và thông dụng trong con người thời kháng chiến. Đó là tình cảm quê nhà quốc gia. Một tình cảm mang tính hội đồng nhưng thành công xuất sắc của Kim Lân là đã miêu tả tình cảm tâm lí chung ấy trong sự biểu lộ sinh động của một con người, trở thành một nét tâm lí thâm thúy ở nhân vật ông Hai. Vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ sắc tố riêng cá thể, in rõ đậm chất ngầu của nhân vật .Cũng như những người nông dân khác thời kháng chiến, bằng một thứ tình cảm khá đặc biệt quan trọng ông Hai rất yêu làng, mảnh đất ông đã sinh ra và lớn lên, nơi cất tiếng khóc chào đời tiên phong của ông, đó là làng Chợ Dầu. Ông mê hồn kể về làng, luôn khoe làng mình, tự hào ở làng về nhiều mặt. Tình cảm ấy được thể hiện tha thiết nhiệt thành khi ông phải xa làng đi tản cư .Ông Hai trò chuyện về làng một cách mê hồn và náo nức lạ lùng, hai con mắt ông sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động giải trí. Hơn thế nữa đây không phải là lần thứ nhất chuyện trò về làng. Tối nào cũng vậy, lần nào cũng như lần nào, phần nói về làng cũng là phần để kết thúc câu truyện .Thái độ của ông Hai với làng biểu lộ ngăn nắp trong một chữ khoe. Những lời khoe của ông thật phong phú, khi thì hãnh diện, khi thì mê man giảng giải, khi thì rành rọt, khi nói liên miên. Ông Hai khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa thoáng rộng nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh. Ông Hai còn khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Ông có vẻ như hãnh diện cho làng được cái sinh phần đó lắm. Cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa hoa lá cây cảnh nom như động ấy còn hơn cả cái lăng cụ Thiếu HĐ Hà Đông. Sau cách mạng ở ông Hai có những nhận thức mới hơn trong việc khoe về làng mình. Ông không khoe cái lăng ấy nữa mà còn biết chính cái lăng ấy nó làm khổ ông, làm khổ những con người của làng ông. Bây giờ nói đến làng ông khoe những ngày khởi nghĩa, những buổi tập quân sự chiến lược, những hố những ụ, những giao thông hào của làng ông. Thậm chí có đôi lúc ông Hai ngậm ngùi kể lại cả những chuyện phiêu dạt và những chuyện đẩu chuyện đâu .Phải nói rằng những biểu lộ và tính khoe làng của ông Hai đó là tình yêu làng tha thiết. Yêu lắm về mảnh đất làng quê nên khoe nên nói cho đỡ nhớ làng, đỡ nhớ trào lưu cách mạng ở làng mà ông đã từng tham gia phụ lão cứu quốc và tham gia đào hào đắp ụ. Một biểu lộ khác của ông Hai cũng xuất phát từ tình yêu làng chợ Dầu, ông không muốn bỏ làng ra đi vào lúc hữu sự. Ông luôn luôn có tâm lý : Mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ, ông cha cụ kị mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này là việc làm chung chứ của riêng ai. Ông Hai bị thực trạng dồn ép khổ sở lắm. Ông không trực tiếp kháng chiến ở làng mà phải đi tản cư. Đi tản cư xa làng ông Hai không ngày nào, không lúc nào không nghĩ về làng. Nỗi nhớ làng luôn luôn túc trực trong lòng ông. Mọi nỗi nhớ ấy đều tập trung chuyên sâu ở những hoạt động giải trí kháng chiến ; hát hò, đào hào, khuân đá. Tình yêu làng quê của ông Hai đã tăng trưởng, đã được tu dưỡng thêm bằng tình cảm mới – tình kháng chiến. Ông Hai không chỉ là người dân làng chợ Dầu, ông còn là một chiến sỹ gắn bó với trào lưu kháng chiến của làng .Nhà văn Kim Lân đã miêu tả một tình cảm, một nét tâm lí quen thuộc về truyền thống cuội nguồn của người nông dân. Tình cảm gắn bó với làng quê, tự hào về quê nhà mình. Cái tâm lí tự hào đó cũng được ca dao bộc lộ :Anh đi anh nhớ quê nhàNhớ canh rau muống nhớ cà dầm tươngNhớ ai dãi nắng dầm sươngNhớ ai tát nước bên đường hôm nao .Cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở người nông dân tình cảm yêu nước to lớn. Ở ông Hai tình cảm yêu làng là thống nhất với lòng yêu nước. Đúng như nhà văn I-li – a Ê ren bua có nói : ” … lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu làng quê trở nên lòng yêu tổ quốc “. Để mỗi người đọc tất cả chúng ta cảm nhận thâm thúy hơn tình cảm yêu làng yêu nước của ông Hai – người nông dân cách mạng. Tác giả đã đặt ông Hai vào một trường hợp nóng bức. Tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư qua làng ông. Một người luôn luôn khoe làng, tự hào về làng như ông Hai khi nghe tin bất ngờ đột ngột ấy không đau đớn sao được. Ông Hai sững sờ, cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được. Từ lúc ấy trong tâm lý ông Hai cái tin dữ ấy lấn chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông. Ra đường ông cúi gằm mặt xuống mà đi, về nhà nằm vật ra đường nước mắt trào ra. Bao nhiêu câu hỏi dày vò, rồi trằn trọc không ngủ được. Không chỉ có thế mà suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu chỉ quẩn quanh ở nhà nghe ngóng, rồi nơm nớp lo chuyện loan ra. Ông Hai lo người ta đuổi người làng Việt gian thật là tiệt đường sinh sống. Mà ông cũng không hề về làng vì về là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Với ông làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. Tấm lòng của ông, tình yêu làng yêu nước của ông chỉ có một mình ông hiểu chẳng biết nói cùng ai. Ông đem nỗi lòng của mình trò chuyện cùng thằng con út cho vơi bớt lòng ông : Nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai má, chết thì chết có khi nào dám đơn sai. Đó có phải chăng là tấm lòng của ông Hai. Tình cảnh của ông Hai, diễn biến tâm trạng của ông khiến ta cảm động biết bao, đồng thời cũng cảm nhận được tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà hình tượng là Bác Hồ .Nhưng hoàn toàn có thể nói điều khiến ta xúc động hơn là tâm trạng của ông Hai khi nghe làng chợ Dầu được cải chính không theo giặc. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui vẻ hẳn lên ông gọi con ra chia quà. Ông múa tay múa chân lên mà khoe, xúc động nhất là ông Hai chẳng hề nghĩ tiếc hay buồn về ngôi nhà riêng của ông bị giặc đốt. Niềm vui vì làng không theo giặc, không làm Việt gian đã chiếm hết tâm lý ông, đau khổ bế tắc đã được khơi thông. Lúc này ông Hai chuyện trò về làng mình cho mọi người nghe thật rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa được dự trận đánh mới về. Có thể nói rằng ông Hai là một hình ảnh đẹp của những người nông dân thông thường nhưng giàu lòng yêu nước. Một mẫu người đáng quí của dân tộc bản địa ta trong những năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp .
Bên cạnh thành công về mặt nội dung, truyện Làng của Kim Lân còn thành công về mặt nghệ thuật. Truyện xây dựng cốt truyện theo diễn biến tâm lí có sức thuyết phục và có ý nghĩa sâu sắc chính vì tình cảm quê hương của một người dân có tinh thần kháng chiến. Ngôn ngữ nhân vật được miêu tả nhuần nhuyễn, lời ăn tiếng nói dân dã, mộc mạc. Tác giả có tài miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp cho người đọc khi gấp sách lại vẫn còn thấy bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của Kim Lân.
Đọc tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân, tác giả đã để lại trong ta một ấn tượng tốt đẹp về hình ảnh ông Hai. Một nông dân hay làm hay khoe, gắn bó bền chặt với làng. Tình yêu làng gắn với tinh thần kháng chiến, lòng yêu nước, một lòng theo Cụ Hồ. Đồng thời cũng cảm nhận sự sáng tạo tình huống truyện của một cây bút có sở trường viết về nông dân, viết về làng quê của nhà văn Kim Lân.
Xem thêm :
Trên đây là những gợi ý chi tiết của Đọc Tài Liệu cho cách làm đề văn phân tích tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân. Hi vọng sau khi tham khảo những nội dung hướng dẫn kèm một số bài văn mẫu hay mà chúng tôi biên soạn trong bài, các em sẽ không còn gặp khó khăn khi gặp dạng đề này trong các bài thi và kiểm tra. Chúc các em học tốt môn Văn !
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận