1. Trần Phú
Đồng chí Trần Phú sinh ngày 01-05-1904. Quê ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh TP Hà Tĩnh. Năm 1922, Trần Phú đỗ đầu kỳ thi tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học ở Huế, được bổ về dạy trường Cao Xuân Dục ở Vinh. Thời gian này Trần Phú cùng với các giáo viên tân tiến mở lớp dạy quốc ngữ đêm hôm cho người trẻ tuổi và công nhân nghèo .
Năm 1925, đồng chí tham gia thành lập Hội Phục Việt (sau đổi thành Hưng Nam rồi Tân Việt cách mạng Đảng). Tháng 07 năm 1926, đồng chí Trần Phú được cử sang Quảng Châu để gặp các đồng chí lãnh đạo Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, để bàn việc hợp nhất Hội thanh niên với Tân Việt. Tại đây, đồng chí Trần Phú được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc và được huấn luyện về chủ nghĩa Mác – Lênin và về kinh nghiệm cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga.
Bạn đang đọc: Các Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ
Đồng chí Trần PhúĐầu năm 1927, chiến sỹ được cử sang học tại trường Đại học Phương Đông, Liên Xô. Tháng 04-1930, chiến sỹ Trần Phú về nước được bổ trợ vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được giao nghĩa vụ và trách nhiệm khởi thảo bản Luận cương chính trị của Đảng. Bản luận cương này được Hội nghị TW lần thứ nhất họp ở Hương Cảng ( Trung Quốc ) tháng 10-1930 trải qua. Cũng tại Hội nghị này chiến sỹ Trần Phú được cử làm Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Đông Dương .Sau Hội nghị chiến sỹ trở lại nước tổ chức triển khai chỉ huy trào lưu cách mạng trong cả nước. Tháng 03-1931, chủ trì Hội nghị TW lần thứ hai nhằm mục đích đấu tranh với những tư tưởng xô lệch trong Đảng và chủ trương tập hợp lực lượng các đoàn thể quần chúng : hội đồng, nông hội, phụ nữ, người trẻ tuổi để đưa trào lưu cách mạng tiến lên .Ngày 19-04-1931, do lời khai của một tên phản bội, chiến sỹ Trần Phú bị địch bắt tại TP HCM. Biết đây là Tổng Bí thư của Đảng, bọn địch đã dùng đủ mọi cực hình để tra tấn nhưng chúng đã không thể nào khuất phục được người cộng sản trẻ tuổi kiên cường này .Tháng 08-1931, chiến sỹ lâm bệnh nặng. Ngày 06-09-1931, chiến sỹ Trần Phú qua đời. Trước khi mất, chiến sỹ Trần Phú dặn lại các chiến sỹ của mình : ” Hãy giữ vững chí khí chiến đấu “. Câu nói đó của người Tổng Bí thư tiên phong của Đảng mới 27 tuổi đời đã trở thành một vũ khí mà mỗi người Nước Ta yêu nước mang theo để xông vào quân địch, vượt qua những khó khăn vất vả trên con đường cách mạng .
2. Lê Hồng Phong
Đồng chí Lê Hồng Phong sinh năm 1902 ( có tài liệu ghi 1900 ), quê ở xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sau khi đỗ bằng sơ học, chiến sỹ Lê Hồng Phong làm thư ký cho một hiệu buôn của người Hoa kiều tại Vinh. Ít lâu sau, chiến sỹ Lê Hồng Phong được chiến sỹ Phạm Hồng Thái, công nhân nhà máy sản xuất Xi pha, trình làng vào học nghề thợ máy. Hai chiến sỹ đã hoạt động, giác ngộ công nhân đấu tranh đòi quyền lợi và nghĩa vụ .Tháng 01-1924, chiến sỹ Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái sang Đất nước xinh đẹp Thái Lan rồi sang Quảng Châu Trung Quốc ( Trung Quốc ) cùng với chiến sỹ Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn thành lập Tâm Tâm xã. Cuối năm1924, chiến sỹ được Nguyễn Ái Quốc giảng dạy về chủ nghĩa Mác – Lênin và các kinh nghiệm tay nghề hoạt động giải trí quốc tế .. Sau khi tốt nghiệp trường Quân sự Hoàng Phố, năm 1926 chiến sỹ được cử sang Liên Xô học trường không quân. Lê Hồng Phong tham gia Hồng quân Liên Xô và được phong quân hàm trung tá. Tiếp đó, chiến sỹ được vào học trường Đại học Phương Đông. Năm 1932, tốt nghiệp được trở về Trung Quốc, bắt mối liên lạc với trong nước và xây dựng Ban hải ngoại của Đảng .Đồng chí Lê Hồng PhongTháng 03-1935, Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ I của Đảng diễn ra tại Ma Cao ( Trung Quốc ), chiến sỹ Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 07 – 1935, chiến sỹ đi dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII và được cử làm uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Quốc tế cộng sản. Tại đây, chiến sỹ Lê Hồng Phong đã gặp nữ chiến sỹ Nguyễn Thị Minh Khai và hai tình nhân nhau rồi cưới nhau ở Trung Quốc .Năm 1936, chiến sỹ Lê Hồng Phong được cử về Nước Ta hoạt động giải trí với danh nghĩa là đại diện thay mặt của Quốc tế cộng sản bên cạnh Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ mặt trận dân chủ, chiến sỹ đã viết 1 số ít sách trình làng Liên Xô và phổ cập đường lối chủ trương của Đảng chống chủ nghĩa phát xít .Năm 1938, chiến sỹ bị đế quốc Pháp bắt ở Hồ Chí Minh và phán quyết 10 tháng tù. Mùa thu năm 1939, hết hạn tù, bọn đế quốc đưa chiến sỹ về làng quản thúc. Đồng chí chưa kịp liên lạc với Đảng để thoát ly thì bị bọn thực dân Pháp bắt giam lại ở Khám Lớn Hồ Chí Minh rồi đày ra Côn Đảo. Đồng chí bị bọn cai ngục đánh đập tra khảo rất dã man nhưng vẫn không chịu khai báo, một lòng trung thành với chủ với Đảng .Ngày 06-09-1942, chiến sỹ Lê Hồng Phong đã quyết tử tại nhà tù Côn Đảo. Trước khi trút hơi thở sau cuối, chiến sỹ đã gắng nói to lên nhắn với chiến sỹ nằm ở buồng bên cạnh : ” Xin chào toàn bộ các chiến sỹ. Nhờ các chiến sỹ nói với Đảng rằng tới giờ phút ở đầu cuối Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin yêu ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng “. Cuộc đời hoạt động giải trí của Lê Hồng Phong là hình tượng cho lòng trung thành với chủ, ý chí kiên cường, quật cường của người cộng sản .
3. Hà Huy Tập
Đồng chí Hà Huy Tập sinh năm 1902, quê ở làng Kim Nặc, xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên. Năm 1923, tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học ở Huế, chiến sỹ Hà Huy Tập được chỉ định về dạy ở thị xã Nha Trang, rồi lại về dạy tại trường tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh. Tại đây, chiến sỹ được giác ngộ cách mạng .Năm 1926, chiến sỹ Hà Huy Tập tham gia Hội Phục Việt. Đồng chí hoạt động giải trí tích cực trong trào lưu đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Châu Trinh, tổ chức triển khai học quốc ngữ đêm hôm cho công nhân các xí nghiệp sản xuất ở Vinh – Bến Thủy. Vì thế, chiến sỹ Hà Huy Tập bị đổi đi dạy ở Quỳ Châu. Đồng chí chống lại quyết định hành động nên đã bị không bổ nhiệm .Đồng chí Hà Huy TậpNăm 1927, chiến sỹ Hà Huy Tập vào hoạt động giải trí ở Nam Kỳ. Tháng 07-1928, chiến sỹ được cử sang Quảng Châu Trung Quốc ( Trung Quốc ) bàn việc thống nhất Đảng. Sau đó, chiến sỹ được trình làng sang học trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Năm 1932, học xong, chiến sỹ tìm cách về nước. Qua Pari, Hà Huy Tập bị cơ quan chính phủ Pháp trục xuất. Đồng chí sang Bỉ rồi trở lại Liên Xô. Đầu năm 1934, Hà Huy Tập về tới Ma Cao ( Trung Quốc ), đã cùng với Lê Hồng Phong lập ra ban chỉ huy Đảng ở hải ngoại. Hà Huy Tập là người chủ trì ban chỉ huy này và chuẩn bị sẵn sàng cho việc triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng vào tháng 03-1935 .Tháng 07-1936, chiến sỹ Hà Huy Tập cùng với chiến sỹ Lê Hồng Phong triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Thượng Hải ( Trung Quốc ) để bổ trợ nghị quyết của TW trước tình hình mới. Tại hội nghị này, chiến sỹ Hà Huy Tập được bầu làm Tổng Bí thư thay chiến sỹ Lê Hồng Phong. Sau đó, chiến sỹ trở lại Hồ Chí Minh cùng cơ quan Trung ương Đảng trực tiếp chỉ huy trào lưu cách mạng trong cả nước. Thời gian này, chiến sỹ Hà Huy Tập viết sách báo lý giải chủ trương mới của Đảng, vạch mặt bọn Tơrôtxkít phản cách mạng .Ngày 14-07-1938, do một tên phản bội chỉ điểm, chiến sỹ Hà Huy Tập bị địch bắt và phán quyết tù. Hết hạn tù, bọn thực dân trục xuất chiến sỹ về nguyên quán. Ngày 30-03-1940, chiến sỹ lại bị bắt, đưa vào giam ở Khám Lớn TP HCM. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, ngày 25-08-1941, bọn chúng buộc chiến sỹ vào tội ” chịu nghĩa vụ và trách nhiệm niềm tin về cuộc khởi nghĩa này ” và công bố xử tử hình. Trước toà, chiến sỹ Hà Huy Tập đã vấn đáp : ” Tôi chẳng có gì phải hụt hẫng, nếu còn sống tôi vẫn liên tục hoạt động giải trí ! “Ngày 26-08-1941, chiến sỹ bị xử bắn tại Hóc Môn ( Gia Định ) cùng với các chiến sỹ Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu. Là một nhà nho yêu nước theo cách mạng, chiến sỹ Hà Huy Tập đã bộc lộ nhân cách cao quý của một người luôn trung thành với chủ với lý tưởng cách mạng, chiến đấu quyết tử vì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bản địa, giải phóng quốc gia. Đồng chí là một trong những nhà hoạt động giải trí nổi tiếng góp thêm phần không nhỏ vào thành công xuất sắc của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 .
4. Nguyễn Văn Cừ
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh 09-07-1912 ở làng Phù Khê, xã Phù Khê, huyện Tiên Sơn, tỉnh TP Bắc Ninh. Tham gia cách mạng từ khi còn là học viên trường Bưởi. Tháng 06-1929, chiến sỹ được kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng. Sau ngày Đảng cộng sản Nước Ta xây dựng, Nguyễn Văn Cừ được phân công làm Bí thư đặc khu Hòn Gia – Uông Bí. Năm 1932, chiến sỹ bị địch bắt và đày ra Côn Đảo .Năm 1936, trào lưu đấu tranh của nhân dân ta tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ cùng với thắng lợi của Mặt trận tầm trung ở Pháp đã buộc thực dân Pháp ở Đông Dương phải trả lại tự do cho Nguyễn Văn Cừ. Ra tù, về TP. Hà Nội, chiến sỹ liên tục hoạt động giải trí cách mạng. Nguyễn Văn Cừ được bầu vào Ban thường vụ TW trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 09-1937 .Đồng chí Nguyễn Văn CừTháng 03-1938, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định hành động xây dựng Mặt trận thống nhất dân chủ. Cũng tại Hội nghị này, chiến sỹ Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư thay chiến sỹ Hà Huy Tập. Sau đó, chiến sỹ vào hoạt động giải trí tại Hồ Chí Minh. Phong trào cách mạng lên cao, địch theo dõi chiến sỹ rất sát, rồi chúng trục xuất chiến sỹ ra khỏi Nam Bộ. Trở ra TP. Hà Nội, chiến sỹ chú trọng việc xây dựng Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, trực tiếp chỉ huy báo chí truyền thông công khai minh bạch của Đảng .Mùa thu năm 1938, chiến sỹ Nguyễn Văn Cừ vào Nam Kỳ cùng với thường vụ TW đấu tranh chống bọn Tơrôtxkít giả danh mác xít phá hoại cách mạng. Ký tên Trí Cường, chiến sỹ viết tác phẩm Tự chỉ trích – một tác phẩm có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn. Với tác phẩm này, chiến sỹ đã có góp phần quan trọng vào việc củng cố sự nhất trí trong Đảng và tăng cường ảnh hưởng tác động, uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân .Giữa lúc trào lưu cách mạng đang tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ thì ngày18-01-1940 Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, TP HCM. Biết đây là Tổng bí thư của Đảng, bọn đế quốc đã dùng mọi thủ đoạn tra tấn dã man nhất để moi tài liệu. Trước sau chiến sỹ vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản .Ngày 28-08-1941, chiến sỹ Nguyễn Văn Cừ bị thực dân pháp xử bắn tại pháp trường Bà Điểm cùng một số ít chiến sỹ khác .
5. Trường Chinh
Đồng chí Trường Chinh ( tên thật là Đặng Xuân Khu ) sinh ngày 09-02-1907. Đồng chí quê ở xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường, tỉnh Tỉnh Nam Định. Năm 1927, chiến sỹ gia nhập Hội Nước Ta cách mạng người trẻ tuổi. Cuối năm 1936, chiến sỹ là đại biểu của Đảng cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, chiến sỹ là chủ bút báo Giải Phóng .Tại Hội nghị lần thứ bảy, chiến sỹ được cử vào Ban chấp hành TW Đảng. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám tháng 05-1941, chiến sỹ Trường Chinh được cử làm Tổng bí thư của Đảng. Tối ngày 09-03-1945, chiến sỹ chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương lan rộng ra, ra thông tư Nhật – Pháp bắn nhau và hành vi của tất cả chúng ta .Đồng chí Trường ChinhVào tháng 02-1951, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ II của Đảng, chiến sỹ Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành TW Đảng lao động Nước Ta. Đây là lần tiên phong Ban Chấp hành Trung ương được bầu họp chính thức trong một Đại hội đại biểu toàn nước .Năm 1958, chiến sỹ Trường Chinh làm Phó Thủ tướng nhà nước kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học Nhà nước. Năm 1976, chiến sỹ được bầu làm quản trị Ủy ban dự thảo hiến pháp của Quốc hội. Ngày 17-07-1986, Ban chấp hành TW Đảng họp phiên đặc biệt quan trọng, chiến sỹ Trường Chinh được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư thay chiến sỹ Lê Duẩn từ trần ngày 10-07-1986 .Tháng 12 – 1986, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VI của Đảng, chiến sỹ được suy tôn làm cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng .Đồng chí Trường Chinh qua đời ngày 30-09-1988. Đồng chí đã được Nhà nước Tặng Kèm Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương cao quý khác .
6. Lê Duẩn
Đồng chí Lê Duẩn ( tên thật là Lê Văn Nhuận ) sinh ngày 07-04-1907. Đồng chí quê ở xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1928, chiến sỹ tham gia Nước Ta người trẻ tuổi cách mạng chiến sỹ hội. Năm 1930, chiến sỹ là một trong những đảng viên tiên phong của Đảng cộng sản Đông Dương .Năm 1937, chiến sỹ giữ chức Bí thư xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1940, chiến sỹ bị địch bắt và phán quyết 10 năm tù. Năm 1946, chiến sỹ ra TP.HN. Cuối năm 1946, Trung ương cử chiến sỹ vào chỉ huy cuộc kháng chiến ở Nam Bộ .Đồng chí Lê DuẩnTừ 1954 – 1957, chiến sỹ ở lại miền Nam chỉ huy trào lưu cách mạng. Năm 1957, chiến sỹ được điều ra TW công tác làm việc. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ III của Đảng, chiến sỹ Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Nước Ta. Năm 1978, chiến sỹ làm Bí thư Quân uỷ TW .Tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ IV của Đảng, chiến sỹ được bầu làm Tổng Bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Nước Ta. Tháng 03-1982, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ V của Đảng, chiến sỹ Lê Duẩn liên tục được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Nước Ta .
Ngày 10-07-1986, đồng chí Lê Duẩn từ trần. Đồng chí đã được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương cao quý khác.
7. Nguyễn Văn Linh
Đồng chí Nguyễn Văn Linh ( tên thật là Nguyễn Văn Cúc ) sinh ngày 01-07-1915. Đồng chí quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm 1929, chiến sỹ tham gia học viên đoàn do Hội Nước Ta Cách mạng Thanh niên chỉ huy. Ngày 01-05-1930, chiến sỹ bị thực dân Pháp bắt, bị phán quyết tù chung thân và đày đi Côn Đảo. Năm 1936, chiến sỹ được trả tự do .Năm 1936, chiến sỹ được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, hoạt động giải trí ở Hải Phòng Đất Cảng và TP.HN. Năm 1939, chiến sỹ tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố TP HCM, sau đó được Đảng điều ra Trung Kỳ để lập lại xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1941, chiến sỹ Nguyễn Văn Linh bị bắt ở Vinh, bị phán quyết 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo .Đồng chí Nguyễn Văn LinhNăm 1945, chiến sỹ hoạt động giải trí ở miền Tây, TP HCM – Chợ Lớn với cương vị Bí thư Thành uỷ, Bí thư đặc khu TP HCM – Chợ Lớn. Năm 1949 – 1960, chiến sỹ là Uỷ viên và quyền Bí thư xứ uỷ Nam Bộ. Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, chiến sỹ được bầu vào Ban Chấp hành TW Đảng, làm Bí thư, Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam .Năm 1976, chiến sỹ giữ chức vụ Bí thư thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ IV, chiến sỹ Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, giữ chức Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của TW, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương, quản trị Tổng Công đoàn Nước Ta đến năm 1980 .Năm 1981, chiến sỹ làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1982, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ V, chiến sỹ được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1985, chiến sỹ được Ban Chấp hành TW Đảng bầu vào Bộ Chính trị, làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh .Tháng 12-1986, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VI của Đảng, chiến sỹ Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư ban chấp hành TW Đảng cộng sản Nước Ta kiêm chức Bí thư Đảng uỷ quân sự chiến lược TW ( năm 1987 ) .Tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VII của Đảng ( tháng 06-1991 ) và Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VIII của Đảng ( tháng 07-1996 ), chiến sỹ được tôn vinh làm cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Nước Ta .Ngày 27-04-1998, chiến sỹ Nguyễn Văn Linh tạ thế để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân. Đồng chí đã được tặng thưởng huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương cao quý khác .
8. Đỗ Mười
Đồng chí Đỗ Mười ( tên thật là Nguyễn Duy Cống ) sinh ngày 02-02-1917. Quê ở Xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố TP.HN. Năm 1936, chiến sỹ tham gia trào lưu mặt trận tầm trung. Năm 1936, chiến sỹ gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1941, chiến sỹ bị địch bắt và phán quyết 10 năm tù giam tại Hoả Lò, TP. Hà Nội. Tháng 03-1945, chiến sỹ vượt ngục liên tục hoạt động giải trí cách mạng, tham gia Tỉnh uỷ HĐ Hà Đông, trực tiếp chỉ huy cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền sở tại ở HĐ Hà Đông .Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chiến sỹ Đỗ Mười giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ HĐ Hà Đông. Từ năm 1946 đến 1954, chiến sỹ giữ các chức vụ sau : Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam ; Bí thư kiêm quản trị Uỷ ban kháng chiến hành chính Tỉnh Nam Định ; Khu uỷ viên khu III kiêm Bí thư Tỉnh uỷ Tỉnh Ninh Bình ; Phó Bí thư Liên khu uỷ III kiêm Phó quản trị Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III ; Chính uỷ Bộ tư lệnh Khu tả ngạn sông Hồng .Đồng chí Đỗ MườiSau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1954, chiến sỹ Đỗ Mười giữ chức Bí thư Thành uỷ kiêm quản trị Uỷ ban Quân chính thành phố Hải Phòng Đất Cảng. Tháng 03-1955, chiến sỹ được bổ trợ làm uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành TW Đảng khóa II. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ III chiến sỹ được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ năm 1956 – 1973, chiến sỹ Đỗ Mười được chỉ định làm Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Nội thương ; Chủ nhiệm Uỷ ban vật giá Nhà nước ; Trưởng phái đoàn Thanh tra nhà nước ; Phó Thủ tướng nhà nước kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban kiến thiết cơ bản Nhà nước ; Phó Thủ tướng nhà nước kiêm Bộ trưởng Bộ kiến thiết xây dựng .Đất nước thống nhất, tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ IV, chiến sỹ được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị ; liên tục giữ chức Phó Thủ tướng nhà nước. Tháng 07-1981, chiến sỹ Đỗ Mười giữ chức vụ Phó quản trị Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 03-1982, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ V, chiến sỹ được bầu vào Ban Chấp hành TW Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị. Năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VI, chiến sỹ được bầu vào Ban Chấp hành TW Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư. Tháng 06-1986, chiến sỹ được Quốc hội bầu làm quản trị Hội đồng Bộ trưởng .Tháng 06-1991, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VII, chiến sỹ được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 06-1996, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần VIII, chiến sỹ liên tục giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành TW Đảng. Tháng 12-1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành TW Đảng khóa VIII, chiến sỹ Đỗ Mười được suy tôn làm cố vấn Ban Chấp hành TW Đảng .
9. Lê Khả Phiêu
Đồng chí Lê Khả Phiêu sinh ngày 27-12-1931. Quê ở xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ngày 19-06-1949, chiến sỹ gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lê Khả Phiêu là cán bộ trưởng thành từ cơ sở và từ trong quân đội. Trong các cuộc kháng chiến đã trực tiếp tham gia chiến đấu và chỉ huy chiến đấu liên tục ở các mặt trận Bắc – Trung – Nam, làm trách nhiệm quốc tế ở nước bạn .Từ năm 1964 – 1993, chiến sỹ đã tiếp đón các chức vụ : Chính uỷ kiêm Trung đoàn trưởng ; Phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu Trị Thiên ; Chủ nhiệm chính trị Quân đoàn 2 ; Phó Chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị Quân khu 9 ; Phó Bí thư Quân khu uỷ Quân khu 9 ; Thiếu tướng, Chủ nhiệm chính trị, Phó tư lệnh chính trị Mặt trận 719 ; Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ; Thượng tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Nước Ta .Đồng chí Lê Khả PhiêuNăm 1991, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần VII của Đảng, chiến sỹ Lê Khả Phiêu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 06-1992, tại Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng lần thứ ba, khoá VII, chiến sỹ được bầu vào Ban Bí thư, sau đó được phân công Thường trực Ban Bí thư. Tháng 01-1994, chiến sỹ được bầu vào Bộ Chính trị. Năm 1996, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VIII, chiến sỹ Lê Khả Phiêu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, uỷ viên Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị .Ngày 26-12-1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành TW Đảng khoá VIII, chiến sỹ Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành TW Đảng .
10. Nông Đức Mạnh
Đồng chí Nông Đức Mạnh sinh ngày 11-09-1940 tại xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Đồng chí xuất thân trong mái ấm gia đình nông dân dân tộc bản địa Tày, bản thân là công nhân lâm nghiệp. Đồng chí tham gia cách mạng năm 1958 và được kết nạp vào Đảng năm 1963 .Năm 1958 – 1961, chiến sỹ học tầm trung nông lâm TW. Năm 1962 – 1963, chiến sỹ là công nhân lâm nghiệp, kỹ thuật viên tìm hiểu trong Ty lâm nghiệp Bắc Kạn. Từ năm 1963 – 1965, chiến sỹ làm đội phó đội khai thác gỗ Bạch Thông. Năm 1965 – 1966, chiến sỹ học tiếng Nga tại trường ngoại ngữ TP.HN. Từ 1966 – 1971, chiến sỹ là sinh viên Học viện Lâm nghiệp Lêningrát, Liên Xô .Đồng chí Nông Đức MạnhNăm 1972, quay trở lại nước, chiến sỹ được phân công làm Phó Ban thanh tra Ty lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái. Năm 1973 – 1974, chiến sỹ làm Giám đốc Lâm trường Phú Lương, Bắc Thái. Từ 1974 – 1976, chiến sỹ được cử đi học tại Trường Đảng hạng sang Nguyễn Ái Quốc .Năm 1976 – 1980, về Bắc Thái, chiến sỹ là Tỉnh uỷ viên, Phó Ty lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái kiêm chủ nhiệm Công ty kiến thiết xây dựng lâm nghiệp rồi trưởng Ty lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái. Từ 1980 – 1983, chiến sỹ là Tỉnh uỷ viên, Phó quản trị Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Thái. Từ 1984 – 10/1986, chiến sỹ làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ, quản trị Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Thái. Từ tháng 11/1986 – 02/1989, chiến sỹ làm Bí thư Tỉnh uỷ Bắc Thái .Tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VI của Đảng, chiến sỹ Nông Đức Mạnh được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành TW Đảng. Tháng 03-1989, chiến sỹ được phân công làm Trưởng ban dân tộc bản địa TW. Tháng 11-1989, chiến sỹ được bầu bổ trợ Đại biểu Quốc hội khoá VIII và được bầu làm Phó quản trị Hội đồng dân tộc của Quốc hội .Tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VII của Đảng, chiến sỹ được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được TW bầu vào Bộ chính trị. Tháng 09-1992, chiến sỹ làm quản trị Quốc hội khóa IX. Tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VIII của Đảng, chiến sỹ được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được TW bầu vào Bộ chính trị .Tháng 09-1997, chiến sỹ giữ cương vị quản trị Quốc hội khoá X và được phân công làm thường vụ Bộ chính trị vào tháng 01-1998 .Tháng 04-2001, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ IX của Đảng, chiến sỹ Nông Đức Mạnh được TW bầu làm Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Nước Ta. Năm 2006, tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ X của Đảng, chiến sỹ Nông Đức Mạnh liên tục được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng .
11. Nguyễn Phú Trọng
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944 tại xã Đông Hội, huyện Đông Anh, ngoài thành phố Thành Phố Hà Nội. Từ năm 1957 đến năm 1963, là học viên trường cấp II rồi cấp III Nguyễn Gia Thiều huyện Gia Lâm ( nay là Q. Long Biên ) TP. Hà Nội .Năm 1963, học Khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp TP.HN, tốt nghiệp bằng Cử nhân Văn chương. Năm 1967, chiến sỹ vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó, công tác làm việc tại tạp chí Học tập ( tiền thân của tạp chí Cộng sản. Năm 1973, chiến sỹ được cử đi học lớp nghiên cứu sinh về kinh tế tài chính chính trị tại Trường Nguyễn Ái Quốc ( nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ) .Đồng chí Nguyễn Phú TrọngNăm 1981, chiến sỹ được cử sang Liên Xô làm thực tập sinh, học tập và bảo vệ luận án tiến sỹ tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Liên Xô ( thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ) .Tháng 8 năm 1983, chiến sỹ về nước, liên tục công tác làm việc ở Ban Xây dựng Đảng của tạp chí Cộng sản. Được đề bạt làm Phó trưởng phòng ban ( tháng 10 năm 1983 ), Trưởng ban ( tháng 9 năm 1987 ), Uỷ viên Ban chỉnh sửa và biên tập ( tháng 3 năm 1989 ), Phó tổng biên tập ( tháng 5 năm 1990 ) rồi Tổng biên tập tạp chí Cộng sản ( tháng 8 năm 1991 ). Năm 1992, chiến sỹ được phong học hàm Phó giáo sư và 10 năm sau ( 2002 ) được phong học hàm Giáo sư. Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn nước giữa nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, họp tại TP. Hà Nội, chiến sỹ được bầu bổ trợ vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII. Tháng 8 năm 1996, chiến sỹ làm Phó bí thư Thành uỷ TP. Hà Nội, kiêm, đảm nhiệm công tác làm việc tuyên giáo của Thành ủy .Tháng 2 năm 1998, chiến sỹ được phân công đảm nhiệm công tác làm việc tư tưởng – văn hóa truyền thống và khoa giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó quản trị Hội đồng Lý luận Trung ương. Hiệu phó trường Đại học KHXH và Nhân Văn .Từ tháng 8 năm 1999 cho tới hết nhiệm kì của Đại hội VIII, chiến sỹ tham gia Thường trực Bộ Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII ; trực tiếp chỉ huy việc biên soạn Văn kiện Đại hội IX của Đảng .Tháng 1 năm 2000, chiến sỹ làm Bí thư Thành uỷ TP.HN. Tháng 11 năm 2001, chiến sỹ kiêm nhiệm quản trị Hội đồng Lý luận Trung ương, đảm nhiệm công tác làm việc lý luận của Đảng. Từ đầu năm 2003, chiến sỹ trực tiếp chỉ huy công tác làm việc tổng kết 20 năm thay đổi, sẵn sàng chuẩn bị và biên soạn văn kiện Đại hội X của Đảng .Ngày 26 tháng 6 năm 2006, chiến sỹ đảm nhiệm chức vụ quản trị Quốc hội thay chiến sỹ Nguyễn Văn An .
Tại kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa XII, đồng chí tái đắc cử chức Chủ tịch Quốc hội.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI, chiến sỹ được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 19 tháng 1 năm 2011. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều nỗ lực trong công tác làm việc chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự chỉ huy của Đảng, như việc đề ra Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa XI ) “ Một số yếu tố cấp bách về thiết kế xây dựng Đảng lúc bấy giờ ” .* tin tức tư liệu từ nguồn Trang thông tin Ban Tuyên giáo Hưng Yên .BTV
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Hỏi Đáp
Để lại một bình luận