Đền Hùng được kiến thiết xây dựng trên núi Hùng ( còn gọi là núi Cả theo tiếng địa phương hay còn có nhiều tên gọi khác nhau : Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn, … ), có độ cao 175 m so với mặt nước biển. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo, …. Núi Vặn cao 170 m, giao động núi Hùng. Núi Trọc nằm giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145 m. Theo truyền thuyết thần thoại. đây là ba đỉnh “ Tam sơn cấm địa ” được dân gian thờ từ rất truyền kiếp .
Toàn khu di tích Đền Hùng xưa kia là rừng già nhiệt đới, đến nay chỉ còn núi Hùng là rậm rạp xanh tươi với 150 loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó còn sót lại một số cây đại thụ như chò, thông, lụ,…và một vài giống cây cổ sơ như kim giao, thiên tuế,..
Bạn đang đọc: Khu Di tích lịch sử Đền Hùng
Từ chân núi, hành khách sẽ được chiêm ngưỡng và thưởng thức lần lượt các di tích lịch sử kiến trúc như :
Cổng đền
Được kiến thiết xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 ( 1917 ). Cổng xây kiểu vòm cuốn cao 8,5 m, hai tầng 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp nổi hai con Nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề bức đại tự : “ Cao sơn cảnh hành ” ( lên núi cao nhìn xa rộng ). Còn có người dịch là “ Cao sơn cảnh hạnh ” ( Đức lớn như núi cao ). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần .
Đền Hạ
Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “ đồng bào ” ( cùng bọc ) được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “ Mắt Rồng ” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau đền .
Đền Hạ được thiết kế xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII – XVIII. Kiến trúc kiểu chữ “ nhị ” gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5 m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc Hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn .
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi-măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước kia đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, lúc bấy giờ đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của quản trị Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945 :
“ Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước ”
Gần Đền Hạ có một ngôi chùa, xưa có tên là Sơn cảnh thừa long tự, sau đổi là Thiên quang thiền tự. Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại bang, gồm các nhà : tiền đường ( 5 gian ), thiêu hương ( 2 gian ), tam bảo ( 3 gian ) ở phía trước, dãy hiên chạy, nhà Tổ ở phía sau. Các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo suốt. Mái chùa được lập ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc tiền đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa .
Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi quản trị Hồ Chí Minh đã trò chuyện với cán bộ và chiến sỹ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản Hà Nội Thủ Đô TP. Hà Nội. Trước sân chùa có 2 tháp sư hình tròn trụ 4 tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa .
Chùa còn có một gác chuông được kiến thiết xây dựng vào thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng giường phối hợp với bẩy lẻ. Các bẩy lẻ phần nhiều để trơn không chạm trổ gì. Trên gác chuông có treo quả chuông, không ghi niên đại đúc chuông mà chỉ ghi : “ Đại Việt quốc, Sơn Tây dạo Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng ”. Qua đó hoàn toàn có thể đoán quả chuông được đúc thời Hậu Lê .
Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu)
Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh vạn vật thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày .
Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m, rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa.
Đền Thượng và Lăng Hùng Vương
Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để thực thi nghi lễ tín ngưỡng của dân cư nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng xanh tươi, nhân khang vật thịnh. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng. Đền Thượng có tên chữ là “ Kính thiên lĩnh điện ” ( Điện cầu trời ) còn có tên là “ Cửu trùng tiên điện ” ( Điện giữa chín tầng mây ). Trong Đền Thượng có bức đại tự đề “ Nam Việt triệu tổ ” ( Tổ khai sáng nước Nước Ta ). Đền được làm kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn thuần, kèo cầu, không có chạm trổ, được thiết kế xây dựng qua bốn cấp khác nhau gồm : nhà chuông trống ( cấp I ), đại bái ( cấp II ), tiền tế ( cấp III ) và hậu cung ( cấp IV ) .
Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ nước nhà quốc gia mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương. Cột đá cao 1,3 m, rộng 0,3 m, hình vuông vắn. Đến năm 1968, Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo lên bệ như lúc bấy giờ .
Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa là mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 ( 1870 ) cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 ( 1922 ) trùng tu lại. Lăng hình vuông vắn, cột liền tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Tầng dưới 4 góc đắp 4 con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “ quả ngọc ” theo tích “ cửu long tranh châu ”. Mái đắpngói ống, cổ diêm, 3 phía đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, vật liệu bằng đá. Trong lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữnhật dài 1,3 m, rộng 1,8 m, cao 1,0 m. Mộ có mái mui luyện. Phía trong lăng có bia đá ghi : Biểu chính ( lăng chính ). Phía trên ba mặt lăng đều có đề : Hùng Vương lăng ( Lăng Hùng Vương ) .
Đền Giếng (tên chữ là Ngọc Tỉnh)
Tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa ( con gái của Vua Hùng thứ 18 ) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời. Đền được thiết kế xây dựng vào thế kỷ XVIII, theo hướng Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công, gồm nhà tiền bái ( 3 gian ), hậu cung ( 3 gian ), 1 chuôi vồ và 2 nhà oản ( 4 gian ), có phương đình nối tiền bái với hậu cung .
Cổng Đền Giếng được xây vào thế kỷ XVIII, mẫu mã gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái. Tầng dưới, giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên lắp nghê chầu. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề : “ Trung sơn tiểu thất ” ( ngôi miếu nhỏ trong núi ). Hai bên có đề câu đối và tượng hai võ sỹ. Mặt sau cổng đắp hổ, mỗi con một bên .
Đền Tổ mẫu Âu Cơ
Được khởi đầu kiến thiết xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004. Đền được kiến thiết xây dựng trên núi ốc Sơn ( núi Vặn ) theo kiến trúc truyền thống lịch sử với cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát. Đền chính có diện tích quy hoạnh 137 mét vuông, làm theo kiểu chữ Đinh. Bên cạnh đền chính có nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà Bia, Trụ biểu, Tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp khách và hoa viên .
Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải Lựu .
Bảo tàng Hùng Vương
Bảo tàng Hùng Vương được thi công thiết kế xây dựng vào năm 1996 và được khánh thành đúng ngày khai hội Đền Hùng năm Quý Mùi ( 2003 ) do Tổng Bí thư Đỗ Mười cắt băng khánh thành. Với gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000 hiện vật có trong Bảo tàng, 162 bức ảnh, 4 bức tranh gốm, 5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò đồng, 5 hộp hình, một nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được tọa lạc đã khắc hoạ chủ đề tổng quát : “ Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử dân tộc ” .
Phần tọa lạc của Bảo tàng Hùng Vương được tập trung chuyên sâu vào 3 chủ đề chính :
– Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương tìm được trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
– Giới thiệu việc hình thành khu di tích lịch sử Đền Hùng và ý thức thiết kế xây dựng khu di tích lịch sử Đền Hùng của nhân dân cả nước .
– Tình cảm của nhân dân, sự chăm sóc của người đứng đầu Nhà nước phong kiến trước đây, của Bác Hồ và các chiến sỹ chỉ huy Đảng ngày này so với Đền Hùng .
Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử lịch sử dân tộc – văn hóa truyền thống đặc biệt quan trọng quan trọng so với người Nước Ta. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc bản địa, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Nước Ta !
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Thủ Thuật
Để lại một bình luận