Tính quốc tế của các đảng cộng sản là điều không thể phủ nhận. Ngay từ lúc thành hình, Quốc tế Cộng sản (“Communist International” – gọi tắt là “Comintern”) luôn là cơ quan đầu não điều hành, phân phối và ra sức hoạt động để ủng hộ các đảng cộng sản thành viên. Không có nhiều chính đảng và hệ tư tưởng chính trị có tầm hoạt động toàn cầu như thế.
Bạn đang xem : Đảng viên tiếng anh là gìĐang xem : đảng viên tiếng anh là gì
Vậy nên, sẽ thật thiếu sót nếu chúng ta tìm hiểu về các thuật ngữ của nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam (“Vietnamese Communist Party – VCP”) mà không có nền tảng cơ bản về chúng trong thứ ngôn ngữ toàn cầu: Anh ngữ.
Bài viết này sẽ điểm qua toàn bộ những thuật ngữ tiếng Anh mà bạn cần biết để hiểu về cấu trúc, hoạt động giải trí và cả những nguyên tắc, tư tưởng chủ yếu của một đảng cộng sản .
Thuật ngữ về cấu trúc và hoạt động của đảng cộng sản
Hãy khởi đầu với những thuật ngữ theo cấu trúc quyền lực tối cao từ cao xuống thấp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta thường gặp những thuật ngữ này trên mặt báo và truyền hình nhiều hơn, đồng nghĩa là có nhiều thời cơ sử dụng hơn .
Trước tiên, phải nhắc đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam (hay “National Congress of Vietnamese Communist Party”). Luật Khoa đã có một bài viết ngắn gọn nhưng rất chi tiết về cơ quan này. Về mặt lý thuyết, đây là cơ quan đại diện không thường trực, có tính quyền lực cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có thể gọi ngắn gọn là Đại hội Đảng (hoặc “Party Congress”).
Thẩm quyền quan trọng nhất về mặt nhân sự của Đại hội Đảng là bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (“Central Committee of VCP”), thường gọi ngắn là Trung ương Đảng (“Central Committee”). Đây có thể xem là đấu trường chính trị chính của nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam.
“ Collective leadership, individual responsibility ” là nguyên tắc thường được dẫn từ tư tưởng Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam .
“Collective leadership” được giới thiệu ở Trung Quốc trong thời kỳ Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền (những năm 1970), với kỳ vọng xóa bỏ tàn tích về phong cách lãnh đạo độc đoán của Mao (“Maoist rulership”). Nguyên tắc này trở nên quan trọng tại Việt Nam chỉ trong thập niên 1980, sau khi các hiện tượng tôn thờ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn dần mất đi sức nặng.
Về mặt kỳ vọng, “collective leadership” được dùng để tránh sự tập trung quyền lực đảng vào duy nhất một cá nhân. Nhìn lên Trung Quốc ở phía Bắc với Tập Cận Bình, và nhìn lại Đại hội 13 của Việt Nam sắp diễn ra, khó có thể nói nguyên tắc này đang hoạt động một cách hiệu quả.
Xem thêm : Lời Bài Hát Đừng Hỏi Em Vì Sao Người Không Đến, Đừng Hỏi Vì Sao
Ngoài nguyên tắc “tập thể lãnh đạo”, còn có một nguyên tắc khác rộng và khái quát hơn, đó là “tập trung dân chủ”, hay “democratic centralism”.
“ Democratic centralism ” Open sớm với sự ủng hộ của những nghiên cứu và điều tra Marxist số 1. Đây cũng là nguyên tắc chỉ huy quan trọng nhất, được chú trọng nhất so với tổng thể những đảng cộng sản trên khắp quốc tế .
Theo họ, những phong trào công nhân phi Marxist trước đó thất bại là do nội bộ phong trào đã có tính tư bản nhị nguyên (capitalist dualism) với sự phân chia giữa nhóm lãnh đạo và nhóm bị lãnh đạo.
Nguyên tắc tập trung chuyên sâu dân chủ một mặt tập trung chuyên sâu và thống nhất quyền lực tối cao chỉ huy vào một cơ quan đầu não, nhưng mặt khác cũng tạo chính sách cho quy trình góp phần, kiểm tra, giám sát liên tục của hàng loạt cơ sở đảng. Trên cơ sở đó, đảng cộng sản mới độc lạ và tách rời khỏi ý chí nền tảng của xã hội tư bản .
Lý thuyết dân vận của đảng – “party’s mass mobilisation theory”, cũng đã từng là một lý thuyết cực kỳ quan trọng trong các điều lệ đảng, là cơ sở để phân biệt mô hình nhà nước cộng sản với mô hình nhà nước tư bản.
Theo đó, dân vận ở đây không đơn thuần chỉ là hoạt động quần chúng nhân dân nghe theo chủ trương chủ trương. Trong những xã hội tư bản, động lực tăng trưởng của xã hội là “ bàn tay vô hình dung ” của những cá thể, tổ chức triển khai đi tìm kiếm doanh thu tư, tạo nên đổi khác một cách chậm rãi .Tuy nhiên, so với những nhà nước xã hội chủ nghĩa, nguồn lực chính của những bước tiến kinh tế tài chính – chính trị – xã hội là do nhà nước chủ trương và hướng dẫn, với sự tham gia của hàng loạt dân nhân .
Dân vận, vì vậy, đã từng là công cụ lý thuyết sống còn cho mọi chính sách kinh tế của các đảng cộng sản, từ cuộc Đại nhảy vọt (Great Leap Forward) tại Trung Quốc cho đến Cải cách ruộng đất (Agrarian land reform) vào năm 1953 hay phong trào hợp tác xã (collectivisation) sau 1975 tại Việt Nam.
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Hỏi Đáp
Để lại một bình luận