Tóm tắt nội dung bài viết
Ngô Quyền
Tiền Ngô Vương
前吳王 Vua Việt Nam (chi tiết…)
Tượng Ngô Quyền trong đền thờ ông ở thôn Cam Lâm
Bạn đang đọc: Ngô Quyền
Ngô Vương Trị vì 939 – 944 Tiền nhiệm Sáng lập triều đại Kế nhiệm Dương Bình Vương Thông tin chung Vợ Dương hậu
Đỗ phi Hậu duệ Ngô Xương Ngập
Ngô Xương Văn
Ngô Nam Hưng
Ngô Càn Hưng Tên húy Ngô Quyền (吳權) Triều đại Nhà Ngô Thân phụ Ngô Mân Sinh 12 tháng 3, 898
Đường Lâm Mất 18 tháng 1, 944 (45 tuổi)
Tĩnh Hải quân
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權, 897 – 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王), là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc gần một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị “vua đứng đầu các vua“1, là vị Tổ trung hưng2 của Việt Nam.
Nguồn gốc
Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ 897 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm. Cha tên Mân làm chức châu mục ở bản châu.1 3 Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, “có trí dũng“1. Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, trạng mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc3 4 .
Sự nghiệp
Bối cảnh
Thời bấy giờ nhà Đường ở Trung Quốc xâm lược nước Việt, đặt thành một Q. của họ, gọi là Q. Giao Chỉ. Từ giữa thế kỷ IX nhà Đường phải đối phó với hai biến cố lớn là nông dân khởi nghĩa và phiên trấn cát cứ. Năm 907, nhà Đường mất, Chu Ôn lập nên nhà Hậu Lương, khởi đầu cuộc loạn Ngũ đại, sử Trung Quốc gọi là Ngũ đại thập quốc, ở miền nam Trung Quốc, tiết độ sứ Quảng Châu Trung Quốc là Lưu Nham đã cát cứ và dựng nước Nam Hán. 5Năm 905, nhân việc nhà Đường có loạn, một thổ hào người Việt là Khúc Thừa Dụ nổi lên đánh đuổi người Trung Quốc, chiếm giữ phủ thành, xưng là Tiết độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ chết, con là Khúc Hạo lên thay. Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang dò xét nhà Nam Hán. Năm 917, Khúc Hạo chết, Khúc Thừa Mĩ lên thay, cho người sang nhà Lương lĩnh tiết việt, muốn tận dụng sự xích míc giữa nước Lương và Nam Hán để củng cố sự nghiệp tự cường của mình. Vua Nam Hán là Lưu Cung tức giận, xua quân chiếm cứ Giao Chỉ. Năm 930, tướng Nam Hán Lý Khắc Chính đem binh đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ, Lý Khắc Chính lưu lại Giao Chỉ. 5 6Một hào trưởng người Ái châu ( thuộc Thanh Hóa thời nay ) là Dương Đình Nghệ nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ Phục hồi. Ngô Quyền lớn lên làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ, được Dương Đình Nghệ gả con gái cho và quyền quản lý Ái châu, 4 đất bản bộ của họ Dương. Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Thanh Hóa ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán, vượt mặt Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy, chiếm giữ bờ cõi nước Việt, xưng là Tiết độ sứ. 5 đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ sau cuối trong thời kì Tự chủ. Nhưng Công Tiễn lại không có chỗ dựa chính trị vững chãi, hành vi tranh giành quyền lực tối cao của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí còn nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh gọn tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị sẵn sàng quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi thủ đoạn xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Nước Ta. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh gọn, không khống chế được những thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.
Trận Bạch Đằng
Năm 938, sau khi Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ ; Ngô Quyền được tin về việc phản nghịch của Công Tiễn và thấy việc Công Tiễn quy phục Nam Hán là nguy cơ tiềm ẩn cho cuộc tự chủ mà họ Khúc và Dương Đình Nghệ cố gắng nỗ lực xây nền móng bèn phát binh từ Ái châu ra đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Nam Hán. Sách An Nam chí lược viết rằng : Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sức yếu bị thua mới cầu cứu nhà Nam Hán 7. Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ có loạn muốn chiếm lấy. Lưu Cung phong con mình là Vạn Vương Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn. Nhưng khi quân Nam Hán chưa sang, mùa thu năm 938, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn. 8 9
Lưu Cung tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Lưu Cung hỏi kế ở Sùng văn sứ là Tiêu Ích, Tiêu Ích nói:“Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến. Vua Nam Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh Ngô Quyền; nhưng quân chưa đến, Ngô Quyền đã giết Kiều Công Tiễn rồi.8
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại,đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.8
Ngô Quyền định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc. Nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. Quân Nam Hán không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nữa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Nam Hán đồn trú ở cửa biển để cứu trợ nhưng không làm gì được ; thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về. 8Sử gia Ngô Sĩ Liên đánh giá và nhận định trong sách Đại Việt sử ký toàn thư : “ Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: “Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu” vậy chăng? ” — Đại Việt sử ký toàn thư 8Ngô Thì Sĩ đánh giá và nhận định trong sách Việt sử tiêu án : “ Lưu Nghiễm ngấp ngó Giao Châu, thừa lúc Đình Nghệ mới mất, cậy có quân ứng viện của Công Tiễn, chắc rằng có thể đánh một trận phá được Ngô Quyền, nhân thế lấy được nước nam dễ như móc túi vậy. Nếu không có một trận đánh to để hỏa nhuệ khí của Lưu Nghiễm, thì cái tình hình ngoại thuộc lại dần dần thịnh lên, cho nên trận đánh ở Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê, Lý, Trần còn phải nhờ dư liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà thôi. ” “ Ngô Tiên Chúa giết được nghịch thần Công Tiễn, phá được giặc mạnh Hoằng Thao. ” — Khảo tổng luận; Lê Tung 10
Cai trị
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng là vương, xây dựng nhà nước tự chủ, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô,sách Đại Việt sử ký toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Sách Việt sử tiêu án chép:Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương Thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.4
Về chủ quyền lãnh thổ, học giả Đào Duy Anh cho rằng những triều đại phong kiến tiên phong quản lý 8 châu, châu Giao, Lục, Phong, Trường, Ái, Diễn, Hoan, Phúc Lộc, nằm trên đất Giao Châu cũ. Ngô Quyền chỉ có quyền được ở những châu mà dân cư là con cháu của người Lạc Việt, tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc bộ, vùng Thanh Nghệ ; còn miền thượng du là những châu ky my ( châu tự trị, chỉ phải cống nạp ) của nhà Đường trước kia do những tù trưởng nắm giữ mà độc lập. 11
Những người thân cận, các tướng tá cùng các hào trưởng địa phương quy phục đã được nhà Ngô phong tước, cấp đất, như Phạm lệnh công ở Trà Hương (Nam Sách, Hải Dương); Lê Lương ở Ái châu, Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh) ở Hoan Châu.11
Xem thêm: Mẹo Trị Hôi Chân Hiệu Quả Tại Nhà
Kinh đô
Nhà Đường quản lý nước Việt, dùng huyện Tống Bình và xây thành Tống Bình làm trị sở của họ, tức phần đất thuộc Giao Châu, bên sông Tô Lịch ( TP. Hà Nội ngày này ). Sau khi lên ngôi Ngô Quyền không đóng đô ở trị sở cũ của nhà Đường như họ Khúc hay Dương Đình Nghệ nữa mà chuyển kinh đô lên Cổ Loa, thuộc Phong Châu ( thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên cũ ) 12. Lý giải cho việc Ngô Quyền không chọn Đại La sầm uất và có truyền thống lịch sử nhiều thế kỷ là TT chính trị trước đó, những sử gia cho rằng có 2 nguyên do : tâm ý tự tôn dân tộc bản địa và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ của quốc gia từ kinh nghiệm tay nghề cũ để lại :
- Ý thức dân tộc trỗi dậy, tiếp nối quốc thống xưa của nước Âu Lạc xưa13, quay về với kinh đô cũ thời Âu Lạc, biểu hiện ý chí đoạn tuyệt với Đại La do phương Bắc khai lập11 14
- Đại La trong nhiều năm là trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, là trung tâm thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Đại La do đó là nơi tụ tập nhiều người phương Bắc, từ các quan lại cai trị nhiều đời, các nhân sĩ từ phương Bắc sang tránh loạn và các thương nhân. Đây là đô thị mang nhiều dấu vết cả về tự nhiên và xã hội của phương Bắc, và thế lực của họ ở Đại La không phải nhỏ. Do đó lực lượng này dễ thực hiện việc tiếp tay làm nội ứng khi quân phương Bắc trở lại, điển hình là việc Khúc Thừa Mỹ nhanh chóng thất bại và bị Nam Hán bắt về Phiên Ngung. Rút kinh nghiệm từ thất bại của Khúc Thừa Mỹ, Ngô Quyền không chọn Đại La14 .
Theo Tạ Đại Chí Trường : Chiếm giữ Đại La xong, Ngô Quyền không đóng đô nơi phủ trị cũ mà lại tìm một vị trí bên lề để canh chừng. Tại sao ? Vì còn tự ti thấy mình chưa đủ sức thay thế sửa chữa chủ cũ ? Hay vì cái thế Đại La trống trải trong tầm sông nước thuận tiện cho sự xâm lấn của Nam Hán so với Cổ Loa khuất lấp hơn một chút ít mà vẫn còn có ngôi thành Kén của Mã Viện làm thế đương cự ? Dù sao thì sự khước từ Đại La cũng là một dấu vết co cụm để đặc thù địa phương nổi lên không những chỉ trong mái ấm gia đình ông mà còn thấy trong cách ứng xử của những tập đoàn lớn quyền lực tối cao khác ở phủ Đô hộ cũ nữa .. 15
Qua đời
Năm 944, Ngô Vương qua đời, hưởng dương 47 tuổi; trước khi chết ông di chúc giao cho Dương Tam Kha phò tá cho con của mình. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương4. Sách Thiền uyển tập anh, phần truyện Quốc sư Khuông Việt có nhắc Ngô Thuận Đế.16
Nhận định
“ Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân17 của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được. ”
- Ngô Sĩ Liên viết rằng mưu tài đánh giỏi, làm nên công dựng lại cơ đồ, đứng đầu các vua1 đồng thời cho rằng cách thức cai trị của ông có quy mô của bậc đế vương1. Phan Bội Châu tôn vinh ông là “vua Tổ phục hưng dân tộc“2 13 .
“ Ngô Tiên Chúa giết được nghịch thần Công Tiễn, phá được giặc mạnh Hoằng Thao, đặt ra cấp bậc các quan văn võ, định chế độ luật lệ y phục, thực là bậc tài giỏi cứu đời. Song ký thác không được người tốt, để lại tai vạ cho con. ” — Khảo tổng luận; Lê Tung 18
- Theo Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam sử lược:Ngô Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy.19
Tồn nghi về quê hương
Vào thế kỷ 13, Lê Tắc, một vị quan nhà Trần sau khi đào ngũ sang theo quân Nguyên, khi quân Nguyên thua trận, ông đã sang Trung Quốc và viết quyển sách sử An Nam chí lược, sách này viết rằng: Ngô Quyền, Người Châu Ái (phần đất thuộc Thanh Hóa ngày nay), nha tướng của Đình Nghệ, giết Công Tiện, tự lập làm vua.20
Vào thế kỷ 15, nhà Minh lấn chiếm Nước Ta, họ đã đốt hàng loạt sách vở hoặc thu sách vở về Trung Quốc. Lê Lợi đánh đuổi người Minh, dựng nên nhà Lê, đến đời con ông là Lê Thái Tông đã sai sử quan Ngô Sỹ Liên biên soạn bộ sách chính sử là Đại Việt sử ký toàn thư. Sách chép rằng Ngô Quyền là người ở châu Đường Lâm1 nhưng Ngô Sỹ Liên chỉ chép mỗi tên châu Đường Lâm chứ không chép rõ Đường Lâm ở đâu. 21. Các học giả Nước Ta đời sau đã có nhiều quan điểm về vị trí của châu Đường Lâm, nay trích dưới đây.
Đường Lâm (Hà Nội)
Vào thế kỷ 19, một học giả là Nguyễn Văn Siêu trong sách Đại Việt địa dư toàn biên viết “Nay xét sử cũ chép: Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng. Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ (xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền) có hai đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương. Còn có một bia khắc rằng: Bản xã đất ở rừng rậm, đời xưa gọi là Đường Lâm, đời đời có anh hào. Đời nhà Đường có Phùng Vương tên húy Hưng, đời Ngũ Đại có Ngô Vương tên húy Quyền. Hai vương cùng một làng, từ xưa không có. Uy đức còn mãi, miếu mạo như cũ. Niên hiệu đề là Quang Thái năm thứ ba mùa xuân tháng hai, ngày 18 làm bia này“.
Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định châu Đường Lâm quê hương của Ngô Quyền nằm ở xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây tức nay là làng cổ Đường Lâm thuộc Hà Nội. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi tương tự21. Đến thời hiện đại, một người làm trong Viện sử học Việt Nam là giáo sư sử họcTrần Quốc Vượng khẳng định22 mà theo như chính ông nhận xét thì nó được “tiếp thu ngay“23, trở thành kiến thức lịch sử chính thống đưa vào giảng dạy trong nhà trường và phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Làng cổ Đường Lâm cũng được mệnh danh là đất hai vua24
Đường Lâm (Bắc Trung Bộ)
- Thuộc Hoan Châu (Nam Hoan Châu, tức Hà Tĩnh)
Người đầu tiên nghi ngờ ý kiến cho rằng quê hương Đường Lâm ở Sơn Tây là học giả Đào Duy Anh. Trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời xuất bản năm 1964, ông viết “Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại, q. 5) chép rằng Ngô Quyền là người Đường-lâm, con Ngô Mân là châu mục bản châu. Sách Cương mục (Tb, q. 5) chú rằng: Đường-lâm là tên xã xưa, theo sử cũ chú là huyện Phúc-lộc, huyện Phúc-lộc nay đổi làm huyện Phúc-thọ, thuộc tỉnh Sơn-tây. Xét Sơn-tây tỉnh chí thì thấy nói xã Cam-lâm huyện Phúc-thọ xưa gọi là Đường-lâm, Phùng Hưng và Ngô Quyền đều là người xã ấy, nay còn có đền thờ ở đó. Chúng tôi rất ngờ những lời ghi chú ấy và nghĩ rằng rất có thể người ta đã lầm Đường-lâm là tên huyện đời Đường thuộc châu Phúc-lộc (Phúc-lộc châu có huyện Đường-lâm) thành tên xã Đường-lâm ở huyện Phúc-thọ. Huyện Đường-lâm châu Phúc-lộc là ở miền nam Hà-tĩnh. An-nam kỷ lược thì lại chép rằng Ngô Quyền là người Ái-châu, cũng chưa biết có đúng không25 “.
Sau đó, khi phê bình Đại Việt sử ký toàn thư, Văn Tân nhận xét “Ý kiến bạn Đào-duy-Anh rất đáng cho chúng ta để ý.[…] Ngô Quyền là người huyện Đường-lâm thuộc Hoan-châu chứ không phải là người huyện Phúc-thọ tỉnh Hà-tây.[…] Ngô Quyền là quý tộc con Ngô Mân quê ở Hoan-châu (có chỗ nói Ái-châu) đã dấy quân từ Hoan-châu tiến ra bắc phá quân Nam Hán ở cửa Bạch-đằng. Như vậy Ngô Quyền phải là người huyện Đường-lâm châu Phúc-lộc (Hà-tĩnh) chứ không phải người xã Đường-lâm huyện Phúc-thọ (Sơn-tây). Có thế mới phù hợp với tình hình xã hội hồi thế kỷ VIII, IX và X26 “.
Năm 1967, với bài viết Về quê hương của Ngô Quyền, Trần Quốc Vượng đã phản bác lại ý kiến của Đào Duy Anh và Văn Tân, đồng thời khẳng định quê hương Ngô Quyền nằm ở làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội hiện thời. Có thể coi đây là tiếng nói quan trọng nhất của giới sử học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ để quyết định vấn đề quê hương Ngô Quyền21 .
- Thuộc Ái Châu (tức Thanh Hóa, khoảng Nam Thanh Hóa – Bắc Nghệ An)
Vào thế kỷ 13, Lê Tắc, người Ái Châu (Đông Sơn, Thanh Hóa), viết trong An Nam chí lược rằng: “Ngô Quyền, người châu Ái“27 .
Trong tập kỷ yếu hội thảo “Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập” tổ chức vào tháng 3 năm 2011, các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vượng, Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với bài viết Đường Lâm là Đường Lâm nào21 cùng nhiều luận cứ lịch sử, đã chứng minh tấm bia cổ Phụng tự bi 奉祀碑 (ký hiệu 36002 trong kho lưu trữ bản dập của viện Nghiên cứu Hán Nôm) được coi là có niên đại từ đời Trần mà Nguyễn Văn Siêu đề cập tới, hiện ở đền thờ Ngô Quyền tại xã Đường Lâm ở Sơn Tây, cứ liệu quan trọng mà Trần Quốc Vượng dựa vào trong bài viết Về quê hương của Ngô Quyền, kì thực chỉ được dựng vào đầu thời Nguyễn.
Và cái tên Đường Lâm của xã Đường Lâm hiện thời mới chỉ xuất hiện từ năm 1964, năm mà Quốc hội Việt Nam chính thức ra quyết định đổi tên xã này thành xã Đường Lâm21, trước đó, đất này có tên là xã Cam Lâm. Từ đó, các nhà nghiên cứu này khẳng định rằng “quê Ngô Quyền nằm loanh quanh giữa vùng Thanh Hóa – Nghệ An ngày nay mà khó có thể ở vị trí Sơn Tây (khi đó là huyện Gia Ninh của Phong Châu) được“.
Gia đình
Vợ
- Dương Hậu: Bà là con gái của Dương Đình Nghệ, kết duyên cùng với Ngô Quyền khi ông trở thành nha tướng của Dương Đình Nghệ, một cuộc hôn nhân mang nhiều ý nghĩa liên minh chính trị. Một số tài liệu ghi rằng bà tên là Dương Thị Như Ngọc, nhưng theo ông Lê Văn Lan thì đây chỉ là một cái tên do người đời sau “đặt”, để “phân biệt” với bà Dương hậu khác là bà Dương Vân Nga, bản thân cái tên Dương Vân Nga cũng chỉ là cái tên trong dân gian mà hậu thế “đặt” cho bà28. Chính sử chỉ gọi bà là Dương thị1 .
- Đỗ phi: Bà là người ở làng Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội hiện nay. Trước khi có đền thờ bà ở gần cầu Tây Dục Tú nhưng nay đã bị phá. Nhà thờ họ Đỗ ở thôn Hậu Dục Tú vẫn còn đôi câu đối nói về cuộc hôn phối giữa bà và Ngô mang ý nghĩa liên minh chính trị Ngô – Đỗ13 .
Con cái
- Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập: Là con trai trưởng của Ngô Quyền, được phỏng đoán sinh ra vào khoảng thập niên thứ hai của thế kỉ 10. Tiền Ngô Vương truyền ngôi cho Ngô Xương Ngập nhưng bị Dương Tam Kha cướp ngôi, Xương Ngập phải bỏ trốn. Năm 950, Dương Tam Kha bị lật đổ, ông được em là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đón về, hai anh em cùng làm vua. Năm 954, ông mất.
- Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn: Là con trai thứ hai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Ông đã làm đảo chính, phế truất Dương Bình Vương, trung hưng lại cơ nghiệp nhà Ngô. Trị vì cùng với anh là Thiên Sách Vương từ năm 950 đến năm 954, sau đó, ông một mình trị nước từ năm 955 đến năm 965 thì mất. Nhà Ngô sụp đổ.
- Ngô Nam Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm
- Ngô Càn Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm
Tuyên truyền và tưởng niệm
Đền thờ và lăng Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là một địa chỉ du lịch và tâm linh nổi tiếng của làng cổ này. Đền được xây dựng bằng gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, có tường bao quanh. Qua tam quan, hai bên có tả mạc, hữu mạc, mỗi dãy nhà gồm năm gian nhỏ. Đại bái có hoành phi khắc bốn chữ “Tiền Vương bất vọng“. Ngày nay tòa đại bái được dùng làm phòng trưng bày về thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng. Hậu cung kiến trúc theo kiểu chữ đinh (丁), có tượng Ngô Quyền, đã được tu tạo vào năm 1877. Lăng Ngô Quyền có mái che, cao 1,5 mét, bia đá được khắc thời Tự Đức, có ghi bốn chữ Hán “Tiền Ngô Vương lăng“. Tiền Ngô vương lăng đã được trùng tu năm 2013 với vốn đầu tư trùng tu lăng là 29 tỉ đồng, trong đó gia tộc họ Ngô đóng góp 30%.29
Trước năm 1945, đền thờ Ngô Quyền có hai mẫu ruộng do ba xóm Đông, Tây, Nam của làng Cam Lâm thay nhau cấy lúa để sửa soạn tế lễ. Lễ vật gồm một con lợn nặng 50 kg, 30 đấu gạo nếp để thổi xôi, trầu cau, hương hoa … Trong hai ngày tế lớn ( 14 và 15 tháng 8 âm lịch ), làng cử một thủ từ và tám tuần phiên để canh gác nhà thời thánh 30 .Phố Nguyễn Công Trứ ở thành phố Hải Phòng Đất Cảng có đình Hàng Kênh cũng thờ Tiền Ngô Vương Ngô Quyền. Tương truyền trước khi đánh quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đóng quân, chiêu binh tập mã ở An Dương ( nay thuộc TP. Hải Phòng ). Dân nhiều làng ở đây đã làm quân cận vệ và chuẩn bị sẵn sàng những cọc gỗ đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để chống quân Nam Hán. Hằng năm vào trung tuần tháng hai âm lịch, đình mở hội, cúng tế, có hát ả đào, hát chèo, múa hạc gỗ và nhiều trò dân gian khác 30. Quanh khu vực hạ lưu sông Bạch Đằng có đến hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và những tướng của ông .Nhiều đường phố mang tên Ngô Quyền như tại Q. Hoàn Kiếm, TP.HN, thành phố Thanh Hóa, thị xã Quảng Yên, … Tên ông cũng là tên của một Q. nội thành của thành phố của TP. Hải Phòng. Nhiều trường học ở Nước Ta cũng mang tên Ngô Quyền.
Ảnh
- Toàn cảnh đền thờ Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm .
-
Trong khuôn viên đền thờ Ngô Quyền.
Xem thêm: Điều Trị Hôi Miệng Dứt Điểm Tại Nhà
- Lăng Ngô Quyền .
Xem thêm
Chú thích
Tài liệu tham khảo
(Nguồn: Wikipedia)
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận