T
rong những thập niên gần đây, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ (KHCN),
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực khoa học – xã hội – nhân văn, khoa học tự
nhiên, xây dựng, công nghệ thông tin, truyền thông, y học… Những thành công trong nghiên cứu và ứng dụng
KHCN đã góp phần làm cho chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện theo hướng bền vững và ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, hoạt động KHCN của nước ta vẫn còn không ít khó khăn, thách thức, cần sự
đầu tư phát triển hơn nữa để tiếp tục có những đóng góp thiết thực vào việc thúc đẩy phát triển đồng bộ các lĩnh
vực kinh tế – xã hội của đất nước trong tình hình mới.
T
hành tựu
T
hời gian qua, Việt Nam chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của KHCN, nhất là trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… Theo đó, KHCN của Việt Nam đã từng bước hội nhập, giao lưu với nền KHCN thế giới, tạo thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế – xã hội.
T
heo số liệu nghiên cứu của Bộ Khoa học và Công nghệ, nhân tố KHCN đóng góp hơn 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng,vật nuôi. Số lượng bài báo khoa học, công trình công bố quốc tế của Việt Nam tăng nhanh, xếp thứ 56 trên tổng số hơn 200 quốc giavà vùng lãnh thổ, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam liên tục tăng.
Năm 2019, Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cho biết, Việt Nam tăng 3 bậc lên vị trí 42/129 quốc gia/nền kinh tế. Với thứ hạng này Việt Nam vươn lên thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp, thứ 3 trong ASEAN, sau Singapore và Malaysia. Đây là thứ hạng cao nhất Việt Nam đạt được từ trước đến nay. So với năm 2018, hai chỉ số liên quan khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tăng mạnh. Trong đó, tổng chi cho nghiên cứu và phát triển tăng 5 bậc (đầu vào); sản phẩm dựa trên tri thức và công nghệ tăng 8 bậc (đầu ra). Các chỉ số về trình độ phát triển của thị trường tăng 3 bậc; tín dụng tăng 4 bậc; tăng năng suất lao động tăng 3 bậc. Năm 2018, Việt Nam được xếp hạng 45 trên 126 quốc gia và nền kinh tế, tăng 02 bậc so với năm 2017. Trong khi đó, năm 2017, chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt 47/127 nước và nền kinh tế tăng 12 bậc so với năm 2016 (59/128), xếp vị trí thứ 9 trong khu vực Đông Nam Á – Đông Á – châu Đại Dương.
Ảnh minh họa : Nguồn internet
C
ó thể thấy, sự phát triển của hoạt động KHCN thời gian qua đã từng bước được đáp ứng với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được hoàn thiện, tập trung hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp KHCN; khuyến khích nhập khẩu công nghệ cao vào những ngành, lĩnh vực ưu tiên và ngăn chặn nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ lạc hậu; xây dựng hệ thống sở hữu trí tuệ phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, phát huy tốt nhấtvai trò của sở hữu trí tuệ là công cụ thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
T
heo thống kê, hiện nay hệ thống các tổ chức KHCN tại Việt Nam có sự phát triển mạnh, cả nước đã có hơn 4.000 tổ chức KHCN thuộc mọi thành phần kinh tế. Đội ngũ nhân lực phát triển cả về số lượng và chất lượng với khoảng 67 nghìn cán bộ nghiên cứu, đạttỷ lệ 7 người/vạn dân.Số lượng công bố quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam tăng trung bình 26%/năm, lĩnh vực toán học và vật lý luôn đứng ở tốp đầu các nước ASEAN. Việc ứng dụng công nghệ cao và phát triển sản phẩm theo chuỗi được đẩy mạnh trong các ngành nông nghiệp vàcông nghiệp.Các nhà khoa học trong nước đã làm chủcông nghệ thiết kế, thicông các nhà máy thủy điện lớn, công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc đạt chuẩn quốc tế; chế tạo thành công thiết bị cơ khí thủy côngvà nâng hạ siêu trường, siêu trọng; làm chủ các kỹ thuật tiên tiến trong y tế như ghép đa tạng, sản xuất vắc-xin.
Năm 2019, đã có 68.386 đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2018; Lượng đơn sở hữu công nghiệp được xử lý tăng đột biến (46,9% so với cùng kỳ năm 2018); cấp văn bằng bảo hộ cho 30.453 đối tượng sở hữu công nghiệp, tăng 50,4% so với cùng kỳ năm 2018 (20.251 văn bằng).
C
ùng với đó, theo kết quả TĐT dân số năm 2019, tỷ lệ dân số có trình độ chuyên môn kỹ thuật của Việt Nam đã tăng lên đáng kể so với năm 2009, tăng 5,9 điểm phần trăm, đạt 19,2% (năm 2009: 13,3%).Tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên tăng mạnh nhất (chiếm 9,3%), gấp hơn hai lần so với năm 2009 (năm 2009: 4,4%).
V
ới nguồn lực tham gia hoạt động KHCN hiện có, Việt Nam đã có thêm nhiều những thành tựu trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Theo đó, KHCN đã có những đóng góp mạnh mẽ cho sự phát triển của các ngành chủ chốt. Cụ thể: Năm 2019, lần đầu tiên vệ tinh do kỹ sư Việt Nam thiết kế bay vào vũ trụ;ra mắt nền tảng dữ liệu bản đồ số Việt Nam – Vmap (Đây được coi là sự kết tinh của trí tuệ Việt Nam trong thời đại Cách mạng Công nghiệp 4.0).
T
r
ong lĩnh vực nông nghiệp: Gạo ST25 của Việt Nam được bình chọn là “Gạo ngon nhất thế giới” năm 2019 và được ICI (International Commodity Institute) cấp chứng nhận. Ngoài ra, với sự hỗ trợ và phát triển KHCN Việt Nam đã sản xuất thành công vắc-xin phòng nhiều bệnh cho vật nuôi, như: vắc-xin cúm gia cầm A/H5N1; phòng bệnh tai xanh cho lợn…
C
ũng trong năm 2019, để quảng bá hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam ra thế giớivà thu hút các nguồn lực quốc tế đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam, Bộ Khoa họcvà Công nghệ đã tổ chức các Ngày hội đổi mới sáng tạo (Techfest) quốc tế tại Hoa Kỳ (từ 7-14/9); Hàn Quốc (từ 3-9/11) và Singapore (từ 10-14/11).
T
ại Việt Nam, Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia năm 2019 (Techfest Việt Nam 2019) được tổ chức tại Quảng Ninh (từ ngày 4-6/12) đã thu hút sự quan tâm của hơn 700 doanh nghiệp khởi nghiệp từ cuộc thi của các làng công nghệ. Với trên 250 cuộc kết nối giữa doanh nghiệp khởi nghiệp với mức quan tâm đầu tư đạt gần 14 triệu USD. Những kết quả đạt được từ ngày hội Techfest 2019 đã cho thấy sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam, đã từng bước tiến ra và hội nhập với quốc tế.
Đặc biệt, những tháng đầu năm 2020, trong bối cảnh cả thế giới đang gồng mình chống đại dịch COVID-19, Việt Nam là một trong số ít các nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương.
T
Xem thêm: Làm Thế Nào Để Win 7 Chạy Nhanh Hơn
rong kết quả đó, vai trò của KHCN đã càng ngày càng được khẳng định với nhiều đề xuất, giải pháp sáng chế, phục vụ hiệu quả cho công tác phòng chống dịch, như: Nghiên cứu, sản xuất thành công bộ KIT phát hiện SARS-CoV-2, đã được Bộ Y tế cấp phép sử dụng, Vương Quốc Anh cấp giấy chứng nhận được bán tự do tại thị trường châu Âu; Tổ chức Y tế thế giới cũng đã cấp Giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm vào ngày 24/4/2020. Cho đến nay, hơn 230.000 test đã được cung cấp cho cả nước, góp phần đặc biệt quan trọng trong công tác phòng chống Covid-19 ở nước ta.
Ngoài ra, với sự tham gia của KHCN, Việt Nam cũng đã nghiên cứu, sản xuất và thử nghiệm thành công sản phẩm robot hỗ trợ y tế, giúp giảm tải công việc cho đội ngũ y bác sỹ, giảm tiếp xúc trực tiếp với người nhiễm bệnh, người nghi nhiễm bệnh, qua đó giảm lây nhiễm chéo virut Corona…
V
ới các kết quả khả quan từ việc nghiên cứu thành công các sản phẩm phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19 trong thời gian ngắn vừa qua đã thể hiện sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước và xã hội, đồng thời khẳng định sự lớn mạnh của các tổ chức KHCN và các nhà khoa học của Việt Nam, từng bước đáp ứng yêu cầu vàcó đủ năng lực để hội nhập thếgiới và khẳng định vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
T
hách thức
M
ặc dù đã có những cải thiện nhất định về tiềm lực KHCN, song đến nay hoạt động KHCN nước ta còn nhiều hạn chế, thách thức. Trong đó, mặc dù hiện các sản phẩm KHCN củaViệt Nam đã được cải tiến và đổi mới nhiều, song phần lớn vẫn sử dụng những công nghệ cũ, lạc hậu. Việc đổi mới công nghệ so với mặt bằng chung vẫn còn chậm.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, năng lực tiếp cận thị trường KHCN của Việt Nam còn khá chậm so với các nước trên thế giới. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn lạc hậu.
T
hực tế cho thấy, thị trường KHCN ở nước ta phát triển còn chậm, còn ít các tổ chức trung gian có uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động kết nối cung – cầu. Nguồn cung công nghệ của thị trường hạn chế, đổi mới công nghệ chưa trở thành nhu cầu cấp bách của doanh nghiệp. Đầu tư của xã hội, nhất là của doanh nghiệp cho khoa họcvà công nghệvẫn thấp so với tiềm năng; năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong nước chưa cao.
Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam có quy mô nhân lực đông, có sức khoẻ song lại thiếu kỹ năng và năng lực đổi mới sáng tạo. Đây là điểm bất lợi của lao động Việt Nam để hội nhập với lao động thế giới. Theo đánh giá của Diễn đàn kinhtế thếgiới (WEF) năm 2019, kỹ năng kỹ thuật số của người Việt Nam được đánhgiá ở mức điểm 3,8 trên thang điểm 7 (xếp hạng 97), kỹ năng phản biện trong giảng dạy chỉ ở mức 3 điểm trên thang điểm 7 (xếp hạng 106 trên 141 nền kinh tế).
Đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học đầu ngành còn thiếu và thiếu các trung tâm khoa học lớn; hiệu quả sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn thấp. Thiếu cơ chế quản lý khoa học nhất là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, việc nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác khoa học không thể thực hiện trong thời gian ngắn mà đòi hỏi nhiều thời gian và tâm sức cũng là những thách thức không nhỏ cho việc phát triển nền KHCN nước nhà.
Số doanh nghiệp tham gia nghiên cứu trong lĩnh vực KHCN hiện nay chiếm tỷ trọng gần 9%, tỷ trọng này có khuynh hướng gia tăng, tuy nhiên tỷ trọng doanh nghiệp làm việc trực tiếp liên quan đến nghiên cứu khoa học và phát triển lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với quy mô trên trên 610,6 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả kinh doanh tại Việt Nam hiện nay
(
T
heo Sách Trắng Doanh nghiệp 2020 của Tổng cục
T
hống kê tại thời điểm 31/12/2018, cả nước có 610.637 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh
doanh ).
Bức tranh đổi mới sáng tạo của Việt Nam khá mờ nhạt so với các nước trong khu vực khi số bằng phát minh sáng chế, số sáng chế áp dụng để thương mại hoá ở Việt Nam đều ở khoảng cách khá xa so với các nước. Trong đó phải kể đến việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam còn khá hạn chế. Theo tính toán chi cho hoạt động R&D của Việt Nam năm 2018 chỉkhoảng 0,4% GDP so với con số 3,3% GDP của Nhật Bản, 2,2% GDP của Singapore, 2,1% GDP của Trung Quốc. Tại Hàn Quốc, chi cho hoạt động R&D hiện nay chiếm đến 4,2% GDP., số bằng sáng chế được áp dụng thương hiệu vượt cả Nhật Bản với 4378 sáng chế/ triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 29.891 USD (năm 2018).
Nguồn vốn đầu tư cho KHCN hiện chưa được chú trọng nhiều. Đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ còn khá thấp, chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. Hoạt động KHCN phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước với mức kinh phí vào khoảng 1,4 – 1,8% tổng chi NSNN hàng năm (không tính phần chi dự phòng an ninh, quốc phòng).
C
ác chuyêngia chorằng, KHCN chính là yếutố quyết định cho tăng trưởng trong dài hạn, là chìa khóa để Việt Nam vượt qua trạng thái dừng, thoát bẫy thu nhập trung bình, đạt tăng trưởng kinh tế cao, vươn lên sự thịnh vượng của quốc gia, của dân tộc… Do vậy, để tạo động lực cho phát triển KHCN, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, một trong những giải pháp cần chú trọng ưu tiên thực hiện là xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho KHCN, thu hút đầu tư từ doanh nghiệp, coi đây là nguồn lực chính. Đồng thời, cần chủ động xây dựng, hoàn thiện, bổ sung và phối hợp với các cơ quan ban ngành có liên quan trực tiếp nhằm đồng bộ hóa thể chế tài chính đối với KHCN, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay; rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật, chính sách về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ và cạnh tranh; tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường KHCN tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng với lãi suất thấp; hoàn thiện chính sách nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, từ đây khuyến khích chuyển giao các công nghệ tiên tiến và hạn chế những công nghệ cũ, lạc hậu từ nước ngoài vào Việt Nam… Có như vậy, KHCN ở nước ta mới thực sự trở thành lực lượng sản xuất hiện đại, là nền tảng của nền kinh tế tri thức của quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất phát triển và trở thành động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế đất nước./.
T
r
ần Thị Thu Trang
V
ụ
T
Xem thêm: Làm Thế Nào Để Iphone 6 Chạy Nhanh Hơn
hống kê Tổng hợp – TCTK
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Thủ Thuật
Để lại một bình luận