Tranh chân dung Trạng Bùng do họa sỹ nhà Minh vẽ.
Thành hoàng làng Bùng
Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613), tự là Hoằng Phu, hiệu là Nghị Trai, người làng Phùng Xá (tục gọi làng Bùng), huyện Thạch Thất, Hà Nội. Với nhiều công lao với đất nước, với người dân làng Bùng (Phùng Xá), nên sau khi ông mất đã được triều đình sắc phong thần, người dân tôn ông làm thành hoàng làng. Hàng năm, vào ngày 24-9 âm lịch, nhân dân địa phương vẫn tổ chức ngày giỗ ông Trạng. Lễ vật dâng lên là cháo đậu, cà muối – những món ăn bình dị, lúc sinh thời ông rất thích.
Bạn đang đọc: Trạng Bùng: Chọn triều cống hiến
Hiện nay, nhà thời thánh và lăng mộ Phùng Khắc Khoan vẫn ở thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất nghi ngút khói hương. Nhà thờ Phùng Khắc Khoan là di tích lịch sử danh nhân văn hoá có từ truyền kiếp, đến triều Nguyễn được tu sửa, tôn tạo, theo dòng chữ Hán trên thượng lương cho biết nhà thời thánh được thay thế sửa chữa lớn và làm hoàn thành xong vào năm Duy Tân 1 ( 1907 ). Nhà thờ được dựng trên nền nhà cũ của Phùng Khắc Khoan. Năm 1551, ông từng dạy học ở đây và đặt tên là Hoàng đạo thư đường. Gian giữa Hậu từ của nhà thời thánh xây cuốn vòm để ngai thờ và bức chân dung tiến sỹ Phùng Khắc Khoan ( do họa sỹ nhà Minh vẽ khi ông đi sứ Yên Kinh ). Ở chính gian giữa nhà Hậu từ là bức đại tự sơn son thiếp vàng “ Trung hưng công thần từ ” ( Đền thờ vị công thần Trung Hưng ). Cỗ long ngai thờ Phùng Khắc Khoan phong thái nghệ thuật và thẩm mỹ thế kỷ XVIII. Nhà thờ bảo lưu nhiều hiện vật giá trị có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Ngoài 11 sắc phong từ thời Cảnh Hưng đến thời Thiệu Trị, đáng quan tâm là 4 cuốn sách chữ Hán. Cuốn thứ nhất là bản sao chưa rõ năm chép, phần đầu Phụ công thi tập, phần sau Sư hoa thi tập tập hợp những bài thơ của Phùng Khắc Khoan ; Cuốn thứ hai : Ký lục tiên tổ sự tích lược chép tiểu sử Phùng Khắc Khoan và bài thơ nôm Đào nguyên hành ( còn có tên khác là Lâm truyền vãn ) ; Cuốn thứ ba : chép những pháp luật con cháu Phùng Khắc Khoan được miễn lệ ; Cuốn thứ tư : Phùng tướng công phụng Bắc sứ lý ( bản sao ) ghi sự kiện Phùng Khắc Khoan đi sứ nhà Minh năm 1598. Mộ Phùng Khắc Khoan đặt cách nhà thời thánh chừng trên 300 m, gần đình làng trông về hướng Bắc. Đầu mộ xây một bệ thờ đặt hai bia đá ghi tóm tắt công trạng tiến sỹ Phùng Khắc Khoan, khắc thời Tự Đức, năm 1857 và 1858.
Học trò Trạng Trình
Thân phụ Phùng Khắc Khoan làm Tri huyện Đông Lan – huyện Đoan Hùng, Phú Thọ thời nay. Vì vậy, lúc nhỏ, ông theo cha để học và không ít tỏ ra sáng dạ, có tài văn chương. Học hết chữ của cha, Phùng Khắc Khoan tìm về Vĩnh Lại ( nay là Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng ) theo học Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và vị thầy có tầm nhìn xuyên thế kỷ đã truyền thụ cho Phùng Khắc Khoan nhiều tuyệt kỹ trong sách Thái Ất thần kinh. Do đó, Phùng Khắc Khoan tinh thông cả thuật số. Học thầy, được truyền thừa những tư tưởng và nắm vững những cơ sở của lý số, nhưng khác với thầy Trạng Trình, người từng đỗ đạt và làm quan với triều Mạc, Phùng Khắc Khoan lại không chịu đi thi và ra làm quan với triều Mạc. Ông trở về quê dạy học. Tại sao Phùng Khắc Khoan lại không theo phò nhà Mạc – triều đại mà khi ông sinh ra đã Open một năm ? Và trong suốt hơn 65 năm ( 1527 – 1592 ) liên tục, nhà Mạc làm chủ đất Thăng Long và vùng đất phía Bắc của tổ quốc.
Theo nhà văn Hoàng Quốc Hải – tác giả hai bộ tiểu thuyết đồ sộ về triều đại Lý – Trần thì ở vào thời thế ấy, kẻ sĩ phù Mạc hoặc phù Lê cũng chẳng hơn gì. Bởi cái hào quang của Lê Thái Tổ đuổi giặc Minh và tạo cho thế nước giầu thịnh của Lê Thánh Tông, đã bị con cháu làm cho tiêu vong, khiến trăm họ oán giận, đời gọi họ là “Vua quỉ”, “Vua lợn”.
Nhà Mạc đã có nhiều cải cách, tăng trưởng quốc gia. Rất nhiều những năng lực lỗi lạc thành đạt qua khoa cử, ra làm quan để lại tiếng tăm trong lịch sử vẻ vang như những Trạng nguyên Nguyễn Thiến ( người xã Canh Hoạch, Tả Thanh Oai, đỗ năm 1532 ) làm quan tới chức Lại bộ thượng thư, Ngự sử đài, Đô ngự sử, Đông những đại học sĩ, Nhập thị kinh viên, tước Thư quận công ; Bảng nhãn Bùi Vịnh ( người xã Định Công, con của Tiến sĩ Bùi Xương Trạch ) làm quan tới chức Lại bộ Tả thị lang tước Mai lĩnh hầu ; Hoàng giáp, tiến sỹ Bùi Trí Vĩnh, Bùi Bá Chiến, Hoàng Sĩ Khải, Dương Văn An … Đặc biệt là Trạng nguyên Giáp Hải ( người xã Dĩnh Kế, Bắc Giang đỗ năm 1538 ) làm quan trải Lục bộ Thượng thư kiêm Đông những, Nhập thị kinh viên, Thái bảo, tước Sách quận công, từng đi sứ nhà Minh ứng đối tỏ ra bậc phách lực, bạt quần khiến người Minh phải nể trọng. Tại sao Giáp Hải không hoàn toàn có thể là tấm gương cho chàng người trẻ tuổi Phùng Khắc Khoan noi theo ? Có thể, Phùng Khắc Khoan đã coi việc Mạc Đăng Dung dẫn theo một đám quần thần cởi trần và tự trói mình, quì trước mặt một lũ quan lại nhà Minh để mong tránh được hạo binh đao là quốc nhục ? nên ông không hề Giao hàng triều đình đó ?
Làm quan nhà Lê – Trịnh
Đầu đời vua Lê Trung Tông, Phùng Khắc Khoan theo Lê Bá Ly vào Thanh Hóa quy thuận nhà Lê. Ban đầu, ông đến Hoằng Hóa, rồi Vĩnh Phúc, Yên Định dạy học. Năm Đinh Tỵ ( 1557 ), Phùng Khắc Khoan đỗ đầu khoa thi Hương ở Yên Định ( Thanh Hóa ) lúc 29 tuổi. Thái sư Trịnh Kiểm biết ông là người mưu lược, có tri thức uyên bác, nên cho giữ chức Ký lục ở ngự dinh, trông coi quân dân bốn vệ và cho tham gia việc cơ mật. Năm Canh Thìn ( 1580 ), đời Lê Thế Tông, Phùng Khắc Khoan dự kỳ thi Hội ở Vạn Lại ( Thanh Hóa ) và đỗ Hoàng giáp. Lúc này ông đã 53 tuổi. Sau khi đỗ, ông được thăng làm Đô cấp sự. Được hai năm thì ông xin từ quan về nhà riêng ở Vạn Lại. Song đến năm sau ( 1583 ) thì Vua mời ông ra làm Hồng lô tự khanh. Năm 1585 đổi ông sang làm Hữu thị lang Bộ Công, rồi cử làm Thừa chính sứ Thanh Hoa ( tức Thanh Hóa ). Năm 1592, nhà Lê Trung Hưng đánh đuổi được nhà Mạc, quay trở lại kinh đô Thăng Long, Phùng Khắc Khoan được giao giữ nhiều chức vụ quan trọng.
Nhà ngoại giao tài ba
Giữa tháng Tư năm Quý Tỵ (1593), vua Lê Thế Tông bước lên chính điện tại Kinh đô Thăng Long, sự nghiệp Trung Hưng của nhà Lê đã hoàn thành. Phùng Khắc Khoan được phong chức Kiệt tiết tuyên lực, công thần, năm 1595, được thăng Công bộ Tả thị lang.
Cùng với ổn định triều chính, việc bang giao với nhà Minh rất hệ trọng. Chuyến đi sứ năm 1596 của Trạng nguyên Nguyễn Văn Giai và Đỗ Uông thất bại. Năm 1597, Phùng Khắc Khoan đã 69 tuổi được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh. Lúc bấy giờ nhà Minh đã nhận cống lễ của nhà Mạc và công nhận chính quyền nhà Mạc. Do đó, nhà Minh không muốn nhận cống lễ của nhà Lê, thậm chí còn muốn kiểm tra gốc tính xem có đúng dòng dõi nhà Lê thật không. Phùng Khắc Khoan bèn viết thư cho Súy ty nhà Minh (quan coi cửa ải) nói rõ nhà Mạc cướp ngôi, mà lại được giúp, đè nén nhà Lê, thế là về bè với gian tà, hại người ngay thẳng, lấy gì để tỏ đại nghĩa với thiên hạ. Người Minh khen là có nghĩa mới cho sứ thần qua cửa quan để đến Yên Kinh.
Gần một năm sau, sứ bộ đến Yên Kinh. Quan nhà Minh trách việc người vàng ta đem cống không theo mẫu cũ làm cúi đầu, nên lại ngăn không cho sứ vào chầu. Phùng Khắc Khoan biện bạch rằng : “ Nhà Mạc cướp ngôi, danh nghĩa là nghịch, nhà Lê khôi phục lại, danh nghĩa là thuận. Nhà Mạc dâng người vàng cúi đầu thay mình, đã là may lắm. Còn như nhà Lê bao đời làm công thần, kiểu người vàng ngửa mặt, quy định cũ còn đó. Nay lại bắt theo như lệ nhà Mạc, thì lấy gì khuyên việc chiêu an và trừng giới việc trách phạt được ”.
Đến lúc dâng biểu cầu phong vương cho vua Lê, quan nhà Minh không cho. Ông phải dùng lời nói mềm mỏng, ôn hòa và cương quyết để được gặp tực tiếp vua Minh. Việc phong vương tuy chưa đạt được (vua Minh chỉ phong cho Vua Lê chức Đồng thống), song cũng là một thắng lợi, vua quan nhà Minh phải coi nhà Lê là chính thống, không còn danh nghĩa gì để giúp quân Mạc.
Cũng khi gặp vua Minh, lại đúng dịp sinh nhật vua Minh, ông bèn làm tập thơ Vạn thọ thánh tiết gồm 30 bài dâng lên. Thần Tông xem và phê : “ Hiền tài đất nào chẳng có. Trẫm xem thi tập, thấy Phùng Khắc Khoan là người trung hậu, thật đáng ngợi khen ; mệnh lệnh in ngay để phát hành trong thiên hạ ”. Trong khi đi sứ, ông còn đối đáp, kết giao với sứ thần Triều Tiên và Nhật Bản. Sứ thần Triều Tiên là Lý Chi Phong đã miêu tả trong sách “ Hậu chí ” rằng : “ Sứ thần họ Phùng tên là Khắc Khoan, tự hiệu là Nghị Trai, tuổi ngoại 70, hình dáng lạ lùng, răng nhuộm đen, tóc vận thành búi, áo dài, ống tay rộng. Khăn đội trên đầu thì lấy cả khổ vải đen trùm lên đầu như dáng khăn ông sư, để 50% rủ về đằng sau xuống quá vai ”. Và bức họa chân dung ông đã được vẽ trong dịp này. Khi đi sứ quay trở lại, chúa Trịnh Tùng rất kính trọng chỉ gọi là Phùng tiên sinh mà không gọi tên. Lê Kính Tông lên ngôi, ông được phong Thượng thư bộ Công, năm thứ 3 ( 1602 ) lại thăng Thượng thư bộ Hộ, tước Mai quận công. Tháng Chín năm Quý Sửu ( 1613 ) ông mất, thọ 86 tuổi, truy tặng Thái phó .
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Hỏi Đáp
Để lại một bình luận