Đối với thuốc loại uống, đặc biệt phải dùng đôi ba lần trong ngày, người ta rất quan tâm đến thời điểm dùng thuốc, tức vào lúc nào trong ngày xem là tốt nhất cho việc uống thuốc.
Từ lâu, người ta thường chọn lựa thời điểm dùng thuốc thích hợp dựa vào các bữa ăn (ngay, gần hoặc xa bữa ăn) tùy vào sự tương tác thuốc và thức ăn, thức uống.
Thực phẩm nếu được dùng chung cùng với thuốc sẽ tác động ảnh hưởng làm đổi khác mức độ hấp thu, phân bổ, chuyển hóa và thải trừ, do đó làm đổi khác tác dụng và cả độc tính so với thuốc. Tức là, nếu dùng thuốc không đúng lúc, hoàn toàn có thể gây tương tác một cách bất lợi. Tuy nhiên, vẫn có rất nhiều thuốc không ảnh hưởng tác động bởi thực phẩm, muốn uống khi nào cũng được .
Trước hết, thức ăn thức uống hoàn toàn có thể làm biến hóa mức độ hấp thu của thuốc đưa đến tác dụng nhanh hay chậm. Nếu dùng thuốc vào lúc đói ( trước khi ăn 1 giờ ví dụ điển hình ) thời hạn lưu thuốc tại dạ dày chỉ trong vòng vài chục phút rồi tống ngay xuống ruột giúp thuốc được hấp thu khá nhanh. Trái lại, nếu thuốc uống ngay sau bữa ăn, thời hạn lưu thuốc tại dạ dày sẽ lâu hơn, từ 1 – 4 giờ làm tác động ảnh hưởng đến sinh khả dụng của thuốc, tức thuốc được hấp thu chậm và kém, đưa đến thuốc cho tác dụng chậm .
Dựa vào bữa ăn, hoàn toàn có thể chia thuốc uống ra làm 4 loại : loại nên uống vào lúc bụng no, loại uống vào lúc bụng đói, loại nên uống cùng với bữa ăn, và loại uống tùy thuộc vào đặc thù của từng loại thuốc .
Thuốc nên uống vào lúc bụng no ( tức uống ngay sau khi ăn ) :
Một số kháng sinh kém bền với môi trường acid như ampicillin, erythromycin, lincomycin… nên uống vào lúc bụng no (nhờ thức ăn trung hòa acid ở dạ dày); nếu uống vào lúc bụng đói làm tăng khả năng phân hủy thuốc do môi trường có nhiều acid tại dạ dày. Aspirin và các thuốc chống viêm không steroid (NSAID: ibuprofen) nếu dùng dạng không bao bảo vệ niêm mạc dạ dày thì nên uống vào lúc bụng no để không hại dạ dày.
Thuốc nên uống vào lúc bụng đói ( tức uống trước khi ăn 1 giờ hoặc sau khi ăn 1 – 2 giờ ) :
Có khá nhiều kháng sinh nên uống vào lúc bụng đói vì giúp hấp thu vào máu nhanh hơn để thuốc sớm cho tác dụng điều trị. Còn thuốc được bào chế dạng bao tan ở ruột ( như Aspirin pH8 ) hay dạng phóng thích dược chất lê dài ( như Adalate LP ) nên uống vào lúc bụng đói, tức để thuốc được đưa xuống ruột nhanh giúp màng bao viên thuốc không bị vỡ gây tác động ảnh hưởng đến tác dụng thuốc .
Thuốc nên uống cùng với bữa ăn:
Các thuốc tan nhiều trong dầu mỡ như : vitamin A, D, E, K, kháng sinh kháng nấm griseofulvin nên uống cùng bữa ăn ( ngay trước hoặc ngay sau cũng được ) để nhờ chất béo của thức ăn thức uống giúp thuốc hấp thu tốt hơn. Thuốc trợ tiêu hóa bổ trợ enzyme tiêu hóa pancreatin ( Festal, Neopeptine … ) cũng nên uống cùng với bữa ăn ( hoặc trước khi ăn 5 – 10 phút ) để giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn .
Thuốc uống khi nào tùy thuộc vào đặc thù của từng loại thuốc :
Vì mỗi loại thuốc có thực chất khác nhau nên không có quy luật chung về sử dụng vào khi nào. Cũng như không có tài liệu nào trình diễn rất đầy đủ cách sử dụng cho mọi loại thuốc. Mà cách dùng thuốc khi nào sẽ tùy vào sự hiểu biết về dược động học, dược lực học của từng loại thuốc đơn cử mà được vận dụng ( thường thì bản hướng dẫn sử dụng thuốc có đề cập nhưng có khi không nói đến ) .
Ví dụ thứ nhất cho thấy uống thuốc lúc nào tùy thuộc vào tác dụng. Domperidon (Motilium-M) là thuốc có tác dụng kích thích nhu động của dạ dày, làm tăng trương lực cơ thắt tâm vị và làm tăng biên độ mở rộng của cơ thắt môn vị sau bữa ăn; cho nên, domperidon được dùng trị chứng khó tiêu đầy bụng, no lâu do thức ăn chậm xuống ruột. Cần dùng domperidon 15 – 30 phút trước bữa ăn nhằm cho thuốc có đủ thời gian hấp thu vào máu cho tác dụng trị chứng khó tiêu do dạ dày hoạt động không tốt. Bởi vì sau khi dùng doperidom khoảng 30 phút thì thuốc mới vào được trong máu và đạt được nồng độ đỉnh trong huyết tương, tức khi đó thuốc mới cho tác dụng tốt nhất. Nếu ta uống thuốc sau bữa ăn, và thời gian uống sau bữa ăn lại quá dài, domperidon không kịp phát huy tác dụng trị chứng khó tiêu đã phát sinh.
Ví dụ thứ hai cho thấy uống thuốc lúc nào không chỉ tùy thuộc vào tác dụng của thuốc mà còn tùy thuộc vào tác dụng phụ có hại . Glimepirid điều trị đái tháo đường tuýp 2 (ĐTĐ2) theo cơ chế kích thích tế bào bêta của tuyến tụy tiết insulin để giúp hạ đường huyết nếu có sự tăng đường huyết. Đối với người bệnh ĐTĐ2, thời điểm tăng đường huyết dễ xảy ra sau bữa ăn. Vì vậy, nên glimepirid ngay trước bữa ăn sáng hoặc bữa ăn chính đầu tiên trong ngày (có tài liệu ghi uống vào bữa ăn thì cũng tương tự). Uống ngay trước bữa ăn để glimepirid có thời gian cho tác dụng đúng lúc đường huyết bắt đầu tăng do bữa ăn. Còn metformin cũng là thuốc trị ĐTĐ2 nhưng nên uống metformin sau bữa ăn vì metformin có tác dụng phụ gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy), nếu uống bụng trống dễ bị rối loạn tiêu hóa hơn (uống trước bữa ăn do bụng đói dễ bị nôn hơn)..
Lời khuyên của thầy thuốc
Để biết khi nào uống thuốc tốt nhất, người sử dụng nên tìm hiểu thêm thông tin bằng cách hỏi bác sĩ chỉ định, dược sĩ nơi mua thuốc, nhất là đọc kỹ bản hướng dẫn sử dụng thuốc. Nếu có nhu yếu về thời gian đặc biệt quan trọng dùng thuốc, bạn sẽ được hướng dẫn, còn nếu không thì uống thuốc khi nào cũng được. Tránh sử dụng thuốc sai cách để xảy ra những hậu quả khó lường .
( theo PGS.TS.DS. Nguyễn Hữu
ThS. BsTrần Đặng Xuân Tùng
Bệnh viện Đa Khoa Vạn Hạnh )
— — — — — — — — –
Bệnh viện đa khoa Vạn Hạnh với tiêu chí “Người bệnh trên hết”
Trên 20 năm kinh nghiệm chữa trị đồng hành cùng bạn bảo vệ sức khỏe:
hotline 028.3863.2553Website benhvienvanhanh.comĐịa chỉ : 781 / B1-B3-B5 Lê Hồng Phong, P. 12, Quận 10, Hồ Chí Minh
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Hỏi Đáp
Để lại một bình luận