Tiểu sử Cao Biền
Cao Biền ( 821 – 887 ) là người Bột Hải, sau ngụ ở U Châu ( Bắc Kinh thời nay ), xuất thân trong một mái ấm gia đình dòng dõi võ quan. Sách “ Đại Việt Sử ký toàn thư ”, tập 1 chép : “ Cao Biền tự là Thiên Lý, cháu của Nam Bình Quận vương Cao Sùng Văn dưới thời vua Đường. Thuở nhỏ, Cao Biền học giỏi, chú ý luyện kiếm bắn cung. Cao Biền có tài bắn cung xuyên đôi ngỗng đang bay trên trời, được người đời coi là bậc kỳ tài.
Cao Biền được cử làm Tiết độ sứ Giao Châu (tên gọi của nước ta lúc bấy giờ) thay cho Trương Nhân bị mất chức vì không dẹp được trộm cướp ở khu vực này. Sau khi đã bình định xong Giao Châu, Cao Biền cho xây thành Đại La để tập trung quyền lực về một mối”.
Bạn đang đọc: Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 3): Cao Biền – Nghìn năm công tội
Tuy theo nghiệp võ như cha, ông, tuy nhiên Cao Biền là người giỏi văn, thường bàn luận chuyện lý đạo với những nho sĩ. Ông là nhà thơ Đường có nhiều bài thơ há nổi tiếng. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ( 4 câu 7 chữ ) Biên phương xuân hứng trích đăng dưới đây cho thấy kĩ năng của Cao Biền : “ Thảo sắc thanh thanh liễu sắc nùng / Ngọc hồ khuynh tửu mãn kim chung / Sinh ca liệu lượng tuỳ phong khứ / Tri tận quan sơn đệ kỷ trùng ”. Nguyễn Cẩm Xuyên dịch là “ Hứng xuân chốn biên thùy ” : Cỏ sắc xanh xanh, liễu sắc nồng / Rượu ngon hồ ngọc rót đầy chung / Sênh ca réo rắt vời theo gió / Vọng đến quan san vượt mấy trùng ”. Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ III, ông được Đường Hy Tông Lý Huyền phong chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, quản lý cả Giao Châu và Quảng Châu Trung Quốc từ năm Hàm Thông thứ bảy ( 866 ) đến năm Càn Phù thứ hai ( 875 ). Bản thần tích do Chánh hương hội Nguyễn Châu Tuệ của làng Phương Nhị, tổng Ninh Xá, huyện Thanh Trì, tỉnh HĐ Hà Đông ( cũ ) thừa phụng sao sự tích, lập vào năm 1938 kể Cao Biền là người tài, từng đỗ Tiến sĩ và nhắc lại chuyện ông bắn một phát xuyên hai con chim ( chim điêu không phải ngỗng ). Đình (đền) Chèm thờ Đức thánh Chèm, vị thần đã hiển linh giúp Cao Biền đánh thắng quân Nam Chiếu. Thần tích làng Phương Nhị kể nhiều về công lao của Cao Biền và nhắc chuyện ông được nhân dân tôn kính gọi là Cao Vương-tên gọi này trùng với câu “ thành của Cao Vương ” trong Chiếu Dời đô của của vua Lý Thái Tổ : “ Sự tích ngài chép ở trong quốc sử, ngài lưu trấn ở Châu Giao ta 7 năm ; dảm ( giảm ) sưu thuế, bớt tạp dịch, yêu dân như con, cho nên người trong nước điều ( đều ) kính trọng, mà tôn người là Cao Vương, cũng ví như ông Sĩ Vương về đời Đông Hán, sang làm quan thú Châu Giao ta thuở xưa. Mà dân điều ( đều ) tôn ngài là Vương. Sau ngài lại đổi về trấn đất Thiên Bình. Ngài có người cháu là ông Cao Tầm, từng theo ngài có công giẹp ( dẹp ) giặc. Ngài dưng ( dâng ) sớ về tâu vua, để lấy ông Cao Tầm thay ngài 10 năm ”. Thần tích này kể tiếp : “ Sau này, nước Nam ta, tưởng niệm công đức ngài, có tới 3,4 chăm ( trăm ) xã lập đền thờ ngài ; ở hạt tỉnh TP Bắc Ninh có hơn chăm ( trăm ) xã thờ ngài, cờ ( cầu ) hòn đảo việc gì điều ( đều ) linh nghiệm cả. Chải ( Trải ) những chiều ( triều ) vua điều ( đều ) có sắc phong tặng là Thượng đẳng phúc thần ”. Cao Biền giữ nhiều chức quan, đa phần là Tiết độ sứ những quân ( đơn vị chức năng hành chính đời Đường ) như : Tĩnh Hải quân ( trước là An Nam đô hộ phủ-Việt Nam ngày này ), Thiên Bình, Tây Xuyên, Kinh Nam, Trấn Hải và Hoài Nam Tiết độ sứ. Ông là Tiết độ sứ tiên phong trong lịch sử dân tộc Nước Ta. Các chức quan của Cao Biền gắn với những đại chiến và ông đã cầm quân tham gia nhiều chiến trận như : dẹp loạn người Đảng Hạng, chiến thắng quân Nam Chiếu xâm lược Giao Châu, đánh quân Thục, dẹp loạn Hoàng Sào … Cao Biền trở thành danh tướng khi đánh thắng quân Nam Chiếu. Song sau đó ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào và bị thất sủng. Cuối đời, ông mắc sai lầm đáng tiếc khi ngày càng trở nên rất tin yêu vào phương sĩ Lã Dụng Chi cùng 2 kì đảng, đến nỗi Lã Dụng Chi nắm quyền trấn áp quân trên thực tiễn, bất kỳ ai dám lên tiếng chống lại Lã Dụng Chi đều phải chết. Do quản trị yếu kém Hoài Nam quân, năm 887, Cao Biền bị Tất Sư Đạc và Tần Ngạn nổi dậy chống lại dẫn đến cảnh giao chiến quyết liệt và ông bị bắt giam. Sau đó, do bị thua trận ở Dương Châu, Tần Ngạn và Tất Sư Đạc mở màn tin rằng Cao Biền dùng ma thuật để chống lại họ. Thầy bói Vương Phụng Tiên báo với Tần Ngạn rằng một đại nhân cần phải chết để chấm hết cực tai của Dương Châu, do đó Tần Ngạn quyết tâm giết chết Cao Biền. Ngày 24/9/887, Tần Ngạn phái tướng Lưu Khuông Thì đi giết Cao Biền cùng những thân thích là phái mạnh. Sau khi bị giết, thi thể của Cao Biền và người thân trong gia đình bị ném xuống một hố chôn chung. Cao Biền “ nổi danh ” ở đất Việt với những trò ma thuật và trấn yểm, “ sinh nghề, tử nghiệp ”, rốt cuộc chính bản thân ông đã chết vì ma thuật, dù sử sách chính thống ghi rằng những trò này là do thuật sĩ Lã Dụng Chi bày ra. Theo thần phả làng Vạn Bảo ( nay là phường Vạn Phúc, Q. HĐ Hà Đông, TP. Hà Nội ), Cao Biền có một người vợ tên là Lã Thị Nga ( còn gọi là Ả Lã, Ả Lã Thị Nương, Lã Đê nương ), theo ông sang Nước Ta. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành Đại La mà ở làng Vạn Bảo dệt lụa và truyền dạy nghề dệt lụa cho dân ở đây, trở thành bà tổ nghề dệt lụa HĐ Hà Đông. Cao Biền về Bắc, bà vẫn ở lại HĐ Hà Đông. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Bà Ả Nương sinh ngày 10/8 Âm lịch, mất ngày 25 tháng Chạp. Sau khi bà mất, được thờ làm Thành hoàng làng tại Đền thờ làng Vạn Phúc.
Đại chiến quân Nam Chiếu
Dấu ấn của Cao Biền tại Nước Ta là đánh tan quân Nam Chiếu, trở thành danh tướng. Vương quốc của người Bạch và người Di ( nằm trong khu vực tỉnh Vân Nam thời nay ) có tên Nam Chiếu khi đó rất tăng trưởng. Người Bạch là dân cư nông nghiệp trong những vùng đất phì nhiêu xung quanh hồ Nhị Hải. Mỗi bộ lạc của người Bạch là một tiểu vương quốc, được gọi là chiếu. Trong 6 chiếu của người Bạch thì Mông Xá ở phía Nam. Năm 737, vua của chiếu Mông Xá là Bì La Cáp lần lượt thống nhất những chiếu kia và xây dựng ra vương quốc mới Nam Chiếu. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép : “ Trong khoảng chừng năm Khai Nguyên ( 713 – 742 ) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn … Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông Quốc rồi lại đổi lại là Đại Lễ … ”. Nam Chiếu tăng trưởng và bành trướng rất nhanh, tiên phong vào Miến Điện, sau đó là hàng loạt Vân Nam, xuống Lào, vào Vương Quốc của nụ cười, rồi ngược về phía Bắc tới Tứ Xuyên ( Trung Quốc ). Năm 764, Nam Chiếu thiết lập kinh đô thứ hai tại Côn Minh ( Trung Quốc ). Năm Kỷ Dậu ( 829 ), quân Nam Chiếu chiếm đóng Thủ Đô ( Trung Quốc ).
Năm 865 ( Ất Dậu ), Cao Biền được Đường Ý Tông cử làm đại tướng cùng giám Q. Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để dẹp quân Nam Chiếu. Về đại chiến của Cao Biền chống lại quân Nam Chiếu xâm lược Giao Châu ( Nước Ta ngày này ), Đại Việt sử ký toàn thư chép : “ Năm Bính Tuất – 866 ( Đường Hàm Thông thứ 7 ). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô thống Giao Châu. Giám trận nhà Đường là Trần Sắc sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sống sót chạy vào Châu Thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây Châu Thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc, khuyến khích tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man đã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 17.000 người ”. Khi Cao Biền đi đánh trận ở Nam Chiếu, thần thánh Việt đã hiển linh giúp ông đánh giặc. Theo “ Việt điện u linh ”, thần hiển linh giúp Cao Biền đánh giặc là Lý Ông Trọng, còn gọi là Thánh Chèm ( ở làng Chèm, nay là phường Thụy Phương, Q. Bắc Từ Liêm, Thành Phố Hà Nội ). Về lai lịch của Lý Ông Trọng, sách “ Đại Việt sử ký toàn thư ” chép : “ Năm 221 ( năm thứ 26 triều Tần Thủy Hoàng ), nước Tần thôn tính cả sáu nước vùng Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên và xưng Hoàng đế. Bấy giờ có người ở Từ Liêm, Giao Chỉ là Lý Ông Trọng người cao 2 trượng 3 thước, lúc ít tuổi đến hương ấp làm lực dịch, bị trưởng quan đánh, bèn bỏ sang nước Tần, làm quan đến chức Tư lệ Hiệu úy. Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, bèn sai ông đem quân đóng giữ đất Lâm Thao ( 1 huyện thuộc tỉnh Cam Túc thời nay ), uy danh chấn động nước Hung Nô. Khi tuổi già về làng rồi chết ”. Khi sau Cao Biền sang đánh nước Nam Chiếu, Ông Trọng hiển linh giúp Cao Biền, phá giặc thành công xuất sắc. Sách “ Việt điện u linh ” chép : “ Đến lúc Cao Biền đánh phá nước Nam Chiếu, Vương thường hiển linh trợ thuận. Cao Biền lấy làm kinh dị, sai thợ trùng tu từ vũ trang trọng hơn xưa, và chạm khắc tượng gỗ son thếp giống như thực mà đem lễ vật đến tế, từ đó, hương hỏa không khi nào hết ”. Làng Nam Trì ( xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên thời nay ) có miếu thờ Lữ Gia ( Thừa tướng người Việt thời Triệu Đà ). Triệu Đà là võ tướng của Tần Thủy Hoàng ( nhà Tần Trung Quốc ), xưng ngôi Hoàng đế tiên phong ở đất Việt ( nước Nam Việt ). Nhà Triệu đã chống lại nhà Hán cùng những kẻ phản bội định dâng nước Việt cho nhà Hán, người Nam Trì gọi là Bảo Công và tướng Danh Lang ( em kết nghĩa của Lữ Gia ) được gọi là Lang Công. Theo “ Ngọc phả Thần tích ” do Hàn lâm Đông những Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân ( 1572 ) triều Lê Anh Tông niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất thì : Một lần qua đây, Cao Biền đã đến miếu tế lễ và cầu khấn rằng : “ Nay ta cầm quân đi đánh giặc Nam Chiếu, hai vị thần có anh linh thì âm phù cho ta thắng giặc. Sau khi thành công xuất sắc hẳn được sắc phong cúng tế, hương hỏa muôn đời ” Đêm ấy, Cao Biền chiêm bao thấy hai vị tướng mặc long bào, giáp ngọc lộng lẫy, đội mũ trăm sao. Một vị cưỡi ngựa trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Cao Biền hỏi : “ Danh tướng ở đâu đến đây ? ”. Một vị xưng : “ Ta vốn là Trung Thiên Bảo quốc ”, vị kia xưng : “ Ta là Trung Lang Tế thế, đều là đại thần của nhà Triệu hồi xưa, nay thấy Ngài đem quân đi đánh giặc, tất cả chúng ta xin tòng chinh, âm phù cho Ngài thắng giặc ”.
Công sức xây thành Đại La của người Việt
Theo Việt sử lược : “ Thành Đại La được thiết kế xây dựng vào thế kỷ 7 với tên gọi Tống Bình. Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ dân ở thành có ý đồ phản nghịch liền sai thầy bói gieo một quẻ. Thầy bói nói rằng : Sức ông không đủ bồi đắp thành lớn. 50 năm sau sẽ có một người họ Cao đóng đô tại đây và kiến thiết xây dựng Vương phủ ”. Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 ( 767 ) đời Đường Đại Tông Lý Dự. Đến năm 791 Triệu Xương đắp thêm to rộng hơn. Năm 823 Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành. Tới vua Đường Y Tôn ( 841 – 873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết độ sứ. La Thành được Cao Biền thiết kế xây dựng, sửa chữa thay thế, chỉnh đốn vào những năm 866 đến 868. Theo chính sử nước ta thì thành Đại La do Cao Biền thiết kế xây dựng có chu vi 1982,5 trượng ( khoảng chừng 6,6 km ). Đại La có hai lớp tường thành, ngoài cùng là một con đê, dài 6.337 m, cao 4,65 m, chân rộng 5,3 m. Tường thành trong dài 5.947 m, cao 8,06 m, chân rộng 7,75 m, bốn mặt có tường nhỏ xây trên thành lớn, cao 1,5 m. Trên thành có 55 lầu vọng địch, còn gọi là tháp canh, có 5 lầu dựng trên cổng thành, 6 cửa nách có tường chắn, 34 đường đi và 3 hào nước bao quanh. Tường thành trong cách tường thành ngoài 50 m. Trong thành có 5.000 gian nhà là nơi quan quân nhà Đường tá túc. Thành Đại La cũng như những thành khác được thiết kế xây dựng từ sức lực lao động, máu xương của dân cư Việt. Cao Biền là một Fan Hâm mộ Đạo giáo mộ đạo, thường làm phép trước những trận chiến. Đạo giáo là một trong Tam giáo sống sót từ thời Trung Quốc cổ đại, song song với Nho giáo và Phật giáo. Đạo trong sự trình diễn của Lão Tử ( 609 trước CN ) là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên : “ Người thuận Đất, Đất thuận Trời, Trời thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên ”. Nó là nguồn gốc của vạn vật. Khởi thủy từ Đạo đức kinh của Lão Tử, Đạo giáo thu nhập nhiều tư tưởng đã thông dụng từ thời nhà Chu ( 1040 – 256 trước CN ) với thiên hà luận về thiên địa, ngũ hành, bát quái, tứ tượng, thuyết về nguồn năng lượng, chân khí, thuyết âm khí và dương khí ngũ hành và Kinh Dịch. Về thực chất, sợ dân làm phản do sông Tô Lịch chảy ngược nên Lý Nguyên Gia đắp La Thành để trấn yểm. Vì vậy, thành Đại La sinh ra với mục tiêu trấn yểm sự phản kháng của người Việt dưới sự đô hộ của phong kiến phương bắc. “ Đại Việt Sử ký toàn thư ” chép Cao Biền là viên tướng có tài thao lược, có công kiến thiết xây dựng thành Đại La và đánh thắng quân Nam Chiếu xâm lược Giao Châu, không có một dòng nào nói về ma thuật, tài trấn yểm của Cao Biền. Tuy nhiên, Đạo giáo là nơi khởi nguyên của thuật tử vi & phong thủy và Cao Biền là một Fan Hâm mộ mộ đạo nên ta hoàn toàn có thể thấy chuyện Cao Biền trấn yểm những long mạch Nước Ta, khiến cho xứ Giao Châu không hề sinh ra những kiệt nhân dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Đường là có thật. Dù rằng để làm việc làm này, ông ta phải nhờ đến những thuật sĩ, thầy tử vi & phong thủy. Truyện Cao Biền trấn yểm long mạch được ghi trong hai sách cổ là “ Việt điện u linh ” và “ Lĩnh Nam chích quái ”, đó là những tác phẩm văn học viết về truyền thuyết thần thoại những vị thần linh Việt Nam thời rất lâu rồi, được viết vào thế kỷ 14 ( Việt điện u linh ) và cuối đời nhà Trần ( Lĩnh Nam chích quái ).
Theo truyền thuyết, Cao Biền là phủ thủy cao tay về trấn yểm. Các đạo sĩ cho rằng, khi có gió bão lớn “rồng đất” sẽ thức dậy lộ ra. Linh khí của đất hiện lên để ứng hợp với sức mạnh của trời. Vì vậy, mỗi lần trời nổi giông gió, sấm chớp là Cao Biền lại cưỡi kỳ lân hay diều gió bay lượn trên cao nhìn xuống phát hiện ra vùng đất nào có “long mạch” để yểm bùa.
Truyền thuyết kể rằng Cao Biền trấn yểm nhiều long mạch Nước Ta. Tuy nhiên, tại 3 tứ trấn, văn học viết chỉ xác lập Cao Biền trấn yểm mỗi thần đất Long Đỗ, Thành hoàng Thành Phố Hà Nội. Trận pháp tử vi & phong thủy của Cao Biền đã bị thần Long Đỗ phá vỡ ( như đã viết trong kỳ trước ) nên sau đó phải lập đền thờ. Những câu truyện kể trên cho thấy sự yêu ghét rõ ràng của người Việt so với sự đô hộ của phong kiến phương Bắc. Cao Biền đánh giặc giúp dân thì được thần thánh Việt hiển linh trợ giúp, còn khi trấn yểm long mạch thì ngay lập tức bị thần thánh trừng trị, khuất phục.
(Còn nữa)
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Hỏi Đáp
Để lại một bình luận