Phân tích đoạn 1 trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ “ mới nhất trong những nhà thơ mới ” đó là câu nói của Hoài Thanh khi nói về Xuân Diệu – một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn, một cây bút có sức phát minh sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền chắc, có góp phần to lớn trên nhiều nghành nghề dịch vụ so với nền văn học Nước Ta tân tiến. Xuân Diệu là sự phối hợp giữa truyền thống lịch sử – văn minh, phương Đông – phương Tây trong đó yếu tố phương Tây tác động ảnh hưởng can đảm và mạnh mẽ hơn. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ. Trong ông luôn sống sót hai trạng thái cảm hứng : một mặt thì nồng nàn, sôi sục, yêu đời, mặt khác thì luôn do dự, u hoài, lo ngại. Tiêu biểu cho hồn thơ “ của niềm khát khao giao cảm với đời ” là bài thơ “ Vội vàng ”, Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc một sức sống mới, một xúc cảm mới, những ý niệm mới lạ với những cải cách nghệ thuật và thẩm mỹ phát minh sáng tạo .
Bài thơ “ Vội vàng ” được in trong tập “ Thơ thơ ” xuất bản vào năm 1938, là một trong những bài thơ tiêu biểu vượt trội nhất xủa Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Đúng như tên gọi, “ Vội vàng ” là tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu so với đời sống tươi đẹp mà nhà thơ phải gấp gáp tận thưởng. Quả thật, mười ba câu đầu của bài thơ “ Vội vàng ” đã nói lên niềm say đắm của Xuân Diệu trước vẻ đẹp của đời sống. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu như một bữa tiệc mà tạo hóa ban tặng cho con người. Khát vọng níu giữ thời hạn hay cũng chính là để níu giữ bức tranh vạn vật thiên nhiên tươi đẹp của nhà thơ đã được mở ra trước mắt người đọc. Đặc biệt, vạn vật đều đang ở độ xuân sắc, xuân thì. Bức tranh vạn vật thiên nhiên đều là những hình ảnh quen thuộc, thân mật nhưng qua cặp mắt “ xanh non, biếc rờn ” của Xuân Diệu bỗng trở nên mới lạ, mê hoặc hơn khi nào hết. Hãy đến với mười ba câu đầu trong bài thơ để một lần nữa sống cùng tác giả trong cả tình yêu và khát vọng .
Phân tích đoạn 1 trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Nếu trong “ Tỏa nhị Kiều ” là hình ảnh của những con người sống mà như không được sống, mờ nhạt, buồn tẻ thì trong “ Vội vàng ” là hình ảnh của một con người yêu vạn vật thiên nhiên, yêu đời sống đến cuồng nhiệt :
“ Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi. ”
Những khát khao phi lí ấy đã tạo nên một cái tôi cực kì ấn tượng và lôi cuốn. Tác giả không sử dụng từ “Ta” mà thay vào đó là từ “Tôi” – một dấu ấn cá nhân để khẳng định một cách đàng hoàng, đĩnh đạc bản ngã của mình khi xưng danh phận trước tạo hóa. Bốn câu thơ đầu được viết theo thể thơ ngũ ngôn, câu thơ ngắn khiến cho cảm xúc bị dồn nén. Điệp cấu trúc câu “Tôi muốn..” kết hợp với nhịp điệu liền mạch, nhanh, dứt khoát đã biểu đạt cảm xúc dạt dào, cháy bỏng trào dâng, nhấn mạnh khát khao mãnh liệt muốn níu giữ bức tranh thiên nhiên tươi đẹp có đủ hương thơm, sắc màu của tác giả. “Tắt, buộc” là hành động chủ động nhưng mang một sắc thái tiêu cực vì thể hiện sự dừng lại, gò bó. “Nắng, gió” thì thuộc quyền của tạo hóa. Sự đối lập trong ngôn từ đã thể hiện ước muốn viển vông, táo bạo, khát vọng tưởng chừng ngông cuồng vì con người không thể “tắt nắng”, không thể “buộc gió”. Có thể nói đây là một Xuân Diệu tham vọng muốn tranh quyền của thiên nhiên, đoạt quyền của tạo hóa. Từ “cho”, “đừng” thể hiện một sự cầu xin, van nài, khẩn khoản, nhà thơ muốn “tắt nắng” để níu giữ cho sắc màu không tàn phai, muốn “buộc gió” để chắt chiu hương vị cho cuộc đời. Đây là biểu hiện của một tình yêu đời tha thiết, mãnh liệt.
Xem thêm: Mẹo Trị Hôi Chân Hiệu Quả Tại Nhà
Bao chùm lên bảy câu thơ tiếp theo là cái nhìn tình tứ, từng cảnh sắc, hình ảnh đều tràn ngập xuân tình :
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh lè ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi ,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần ;
Tôi sung sướng. Nhưng hấp tấp vội vàng 50% .
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. ”
Đến đây, thể thơ ngũ ngôn đã nhường chỗ cho thể thơ tự do, cách ngắt nhịp 3/5 so với bốn câu thơ đầu thì câu thơ dài hơn, nhịp thơ chậm rãi hơn khiến xúc cảm như trải dài đi theo một khoảng trống vạn vật thiên nhiên rộng mở. Với ngôn từ trau chuốt, mượt mà, Xuân Diệu có vẻ như đang thổi hồn vào từng câu, từng chữ của đoạn thơ khiến nó trở nên sinh động và mê hoặc. Điệp từ “ của ” bốn lần biểu lộ sự chiếm hữu đồng thời tạo mạch link giữa hai khổ thơ và những câu thơ. Từ “ của ” không chỉ đã lí giải cho những khát vọng níu giữ vạn vật thiên nhiên tươi đẹp của Xuân Diệu mà còn nhấn mạnh vấn đề niềm niềm hạnh phúc của vạn vật thiên nhiên khi mùa xuân về, vạn vật đều có đôi có lứa, có cặp, vạn vật như thuộc về nhau, không ai lẻ bóng một mình. Xuân Diệu đã làm sống dậy vẻ tình tứ, tinh khôi của sự vật. Bên cạnh đó, điệp từ “ này đây ” Open năm lần ở những vị trí khác nhau tích hợp với phép liệt kê “ tuần tháng mật ”, “ hoa của đồng nội xanh lè ”, “ lá của cành tơ phơ phất ”, “ khúc tình si ”, “ ánh sáng chớp hàng mi ” như một lời trình làng, khoe khoang về vẻ dẹp phong phú và đa dạng, phong phú, phong phú của bức tranh vạn vật thiên nhiên tỏa nắng rực rỡ, tươi đẹp. Ta có cảm xúc như mỗi một bước chân của nhà thơ lại mở ra một vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên trong khoảng trống, thời hạn của cuộc sống thực. Đoạn thơ đã mở ra một bức tranh xuân tình, xuân thì bằng nhiều giác quan. Trước hết là bằng thị giác, hình ảnh ong bướm đi hút nhụy hoa về làm mật cho đời hay cũng chính là ẩn dụ cho mùa xuân của tình yêu. “ Hoa của đồng nội xanh tươi ” hoa nở bùng cháy rực rỡ trên cánh đồng xanh đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tươi mới, đầy sức sống của vạn vật thiên nhiên tạo vật. Điệp từ “ cành tơ phơ phất ” gợi sự mong manh, thướt tha, một vẻ đẹp tinh khôi, non tơ. Không chỉ cảm nhận vạn vật thiên nhiên bằng thính giác, nhà thơ còn sử dụng thính giác của mình để cảm nhận “ khúc tình si ” – bản giao hưởng của tình yêu của chim yến, chim oanh. Cụm từ “ ánh sáng chớp hàng mi ” được hiểu theo hai nghĩa : nghĩa thứ nhất là ánh sáng tượng trưng cho vẻ đẹp của người thiếu nữ, vẻ đẹp điệu đàng, tươi tắn, nghĩa còn lại là ánh sáng bình minh đã trở thành người tình đẹp tươi của muôn loài. Hình ảnh nhân hóa “ thần Vui ” ý chỉ niềm vui rất thiêng, món quà ban phát cho con người để thức tỉnh sức sống ở mỗi ngày mới. “ Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần ” câu thơ sử dụng nghệ thuật và thẩm mỹ quy đổi cảm xúc, tháng Giêng được cảm nhận bằng thị giác nhưng ở đây tác giả lại cảm nhận bằng vị giác “ ngon ” biểu lộ sự tinh xảo trong cách sử dụng từ ngữ. Đây là một câu thơ lạ, quyến rũ bởi lối ví von so sánh đã vật chất hóa hình ảnh “ tháng Giêng ” như một cặp môi căng mọng. Ở đây “ tháng Giêng ” được hoán dụ để chị mùa xuân của tuổi trẻ, mùa xuân của sức sống, là thời gian đẹp nhất của cuộc sống, thời gian đẹp nhất trong năm. Nhà thơ như muốn nhấn mạnh vấn đề vào sự tươi mới, ban sơ, mơn mởn của bức tranh vạn vật thiên nhiên, sự mời gọi hãy đến chiêm ngưỡng và thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thật tươi đẹp, tràn trề nhựa sống, điệu đàng lòng người, qua đó thể hiện niềm vui, sự háo hức, tình yêu vạn vật thiên nhiên của tác giả. Tác giả tận hưởng vạn vật thiên nhiên như tận hưởng ái tình, đắm say vạn vật thiên nhiên như một kẻ đắm say tình si. Ta hoàn toàn có thể thấy một ý niệm sống rất là mới lạ của Xuân Diệu : nếu thơ truyền thống lịch sử lấy vạn vật thiên nhiên là thước đo cái đẹp thì đến thơ Xuân Diệu thước đo cái đẹp ở đời chính là con người trong tuổi trẻ và tình yêu. Câu thơ “ Tôi sung sướng. Nhưng hấp tấp vội vàng 50% ” với cách ngắt nhịp 3/5, dấm chấm được đặt ở giữa câu đã mở ra hai trạng thái cảm hứng trái chiều : một mặt thì “ sung sướng ” – vui mắt niềm hạnh phúc vì đang sống trong những tháng ngày đẹp nhất của cuộc sống, mặt khác thì “ hấp tấp vội vàng 50% ” – lo âu, khắc khoải vì sợ cái đẹp nhanh gọn tàn phai. “ Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân ” đây là một tuyên ngôn sống của Xuân Diệu, ông khẳng định chắc chắn không chờ mùa xuân đi qua rồi mới tiếc xuân, ông sẽ sống cao độ với từng tích tắc của mùa xuân. Tức là tác giả nhớ xuân, tiếc xuân ngay cả khi mùa xuân đang còn bởi Xuân Diêu luôn có nỗi ám ảnh về thời hạn .
Có thể nói, Xuân Diệu là người tình nhân cường tráng của vũ trụ. Thiên nhiên trong thơ ông như một bữa tiệc xuân đang mời gọi con người đến thưởng thức.Với những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ bức tranh thiên nhiên ấy như đang tỏa hương, hút mật, đang cựa quậy, sinh sôi, đang phơi bày hương sắc.Tác giả đã khẳng định: hạnh phúc không ở đâu xa mà ở rất gần với con người ta chỉ cần với tay ra là chạm tới hạnh phúc. Nếu các nhà thơ xưa thường tìm niềm vui ở chốn bồng lại thì Xuân Diệu tìm thấy niềm vui ngay chính trong cuộc sống nơi trần thế, “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Hơn thế nữa, ông còn gửi gắm đến người đọc một quan niệm sống mới mẻ: nếu trong thơ Trung Đại cái tôi ẩn đằng sau cái ta, sống là phải tận hiến thì trong thơ Xuân Diệu sống là phải tận hưởng những gì tươi đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi trẻ.
Xem thêm: Trị Viêm Lợi Tại Nhà Hiệu Quả
Đến đây, ta mới hiểu vì sao Xuân Diệu lại nói rằng : “ Đây là phần ngon nhất của cuộc sống tôi. Tôi gửi hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng ”. Bài thơ “ Vội vàng ” chính là lời nói của một tâm hồn yêu đời khát khao được tận thưởng toàn vẹn bữa tiệc xuân mà vạn vật thiên nhiên ban tặng cho con người, là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc sống mình, nhất là những năm tuổi trẻ tươi đẹp .
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận