Đề: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
(Hoặc phân tích nhân vật Mị và A Phủ để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm)
HƯỚNG DẪN
I. MỞ BÀI
Tô Hoài là nhà văn có nhiều cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám. Ông nổi tiếng với nhiều tác phẩm nhưng tiêu biểu nhất là “Dế mèn phiêu lưu ký” và “Vợ chồng A Phủ”. Truyện “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Thông qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ, tác phẩm đã để lại tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ thấm đượm trên mỗi trang sách của Tô Hoài.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát : Truyện “ Vợ chồng A Phủ ” được nhà văn Tô Hoài được in trong tập “ Truyện Tây Bắc ”. Tác phẩm gồm hai phần : phần đầu trích học trong sách giáo khoa là phần nói về đời sống đầy tủi nhục của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra ở Hồng Ngài, kết thúc bằng việc Mị cắt đứt dây trói cứu A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Phần sau là đời sống mới của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Họ theo Cách mạng giải phóng quê nhà .
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông thâm thúy so với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào năng lực vươn dậy của họ, đồng thời lên án những thế lực tàn khốc, đen tối chà đạp lên quyền sống, tham vọng niềm hạnh phúc và phẩm giá của con người .
2. Nội dung cần phân tích, làm rõ :
a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm này trước hết được toát lên từ niềm cảm thông thâm thúy của Tô Hoài so với những số phận xấu số, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu vượt trội là Mị và A Phủ. Hai sự sống tươi tắn bị đày đọa kinh khủng trong tù ngục nhà thống lí Pá Tra đang bị chết dần, chết mòn vì khổ đau. Mị – cô gái trẻ đẹp, mơn mởn như bông hoa rừng nhưng bị bắt cóc về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, lễ giáo, hủ tục phong kiến miền núi. Mị sống bí mật vật vờ như chiếc bóng, cứ “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ”. Khi thì tưởng “ mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa ”. Bởi Mị sống mà phần đông mọi quyền hạn bị tước đoạt. Mang tiếng là con dâu nhưng Mị lại là con dâu gạt nợ. Là con nợ hơn là con dâu. Là con nợ nên Mị thành nô lệ để “ Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay. Cuối mùa thì đi nương bẻ bắp … khi nào cũng cài một bó đay ở trong tay để tước thành sợi. Suốt năm, suốt đời như vậy ”. Bị bóc lột sức lao động đã đành, Mị lại còn bị tước đoạt tuổi xuân, niềm hạnh phúc, bị thần quyền ép chế. Nơi Mị sống chỉ độc “ một ô hành lang cửa số, một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng ”. Đó là chốn âm ti trần gian mà tên chồng A Sử đã trói buộc Mị vào đó, vùi dập tuổi xuân của Mị ở đó .
A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh, gan bướng, sống đời sống hồn nhiên, phóng khoáng của tuổi trẻ yêu đời, lao động giỏi. A Phủ không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục cũng biến thành kẻ trừ nợ suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách thảm khốc đến mức gần như tê liệt cả sức phản kháng. Cảnh xử kiện hung tàn như thời trung cổ được Tô Hoài vẽ nên bằng một trang giấy mà ở đó sự tàn tệ, gian ác đã lên ngôi. A Phủ bị đánh đập gần như cả ngày : “ đầu, đuôi mắt giập chảy máu ” nhưng “ chỉ quỳ và im như cái tượng đá ”. Đến cả cái cảnh vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ phải bị trói đứng lên cái cột với dây mây quấn từ chân lên đến cổ. Phải chờ chết một cách vô lý trên cái cọc ấy giữa đêm đông rét mướt nếu không có bàn tay tương hỗ của Mị và tấm lòng nhân đạo cao quý của nhà văn .
b. Biểu hiện thứ hai của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân lao động Tây Bắc mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Chúng đã lợi dụng chính sách cho vay nặng lãi để nô lệ hóa con người mà Mị và A Phủ chính là nạn nhân của chúng. Mị và A Phủ từ là những đóa ban rừng mơn mởn, yêu tự do, giàu tài năng nhưng vì món nợ mà họ đã trở thành những kẻ nô lệ suốt đời bị đối xử như con vật. Nợ là sợi dây trói buộc thể xác của Mị và A Phủ vào nhà thống lý nhưng thần quyền mới là sợi dây trói oan nghiệt nhất đã trói buộc tinh thần Mị và A Phủ vào nhà thống lý. Họ đã bị thần quyền làm cho tê liệt về ý thức phản kháng, trở thành những con người cam chịu kiếp sống trâu ngựa. Không chỉ vậy, chúng còn dùng cường quyền, hủ tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn để thỏa mãn sự độc ác. Mị bị bóc lột lao động tàn tệ chỉ biết chúi đầu vào công việc cả đêm cả ngày “suốt năm, suốt đời như thế”. Bị A Sử trói đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân chỉ vì Mị muốn đi chơi. A Phủ thì quanh năm chỉ rong ruổi ngoài bìa rừng chăn bò chăn ngựa đến nỗi quên cả việc về thăm làng cũ. Bị trói đứng vào cột chờ chết, thế mạng mình cho mạng của con bò. Qua những số phận ấy, ngòi bút Tô Hoài đã vạch trần bộ mặt tàn bạo của cha con nhà thống lý. Mang đến cho người đọc “tập hồ sơ tội ác” về tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi ở Tây Bắc trước khi có cách mạng về.
c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ.
Trước hết, nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng trước vẻ đẹp của nhân vật Mị. Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu năng lực “ Mị thổi sáo hay, thổi lá cũng hay như thổi sáo ”. Có tấm lòng hiếu thảo với cha già. Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý, dù đời sống nhiều khổ cực, khổ như trâu ngựa nhưng trong Mị luôn chứa đựng sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng can đảm và mạnh mẽ. Tất cả đã được ngòi bút Tô Hoài trân trọng, nâng niu qua từng phát hiện .
Trong đêm tình mùa xuân, sức sống ấy như ngọn lửa phát cháy kinh hoàng. Khi nghe tiếng sáo vọng lại “ thiết tha bổi hổi ”, Mị đã sống lại những phút giây tuổi trẻ ngày nào. Đó là lúc năng lực âm nhạc trong Mị được thức tỉnh “ Mị ngồi nhẩm thầm lời người đang thổi sáo ”. Hành động ấy nói lên bao điều. Bấy lâu nay, cô Mị câm lặng, vô cảm, ấy thế mà thời điểm ngày hôm nay bỗng được sống dậy. Bài hát cũ lâu rồi không hát, điệu sáo ấy lâu rồi không thổi nhưng Mị vẫn nhớ, Mị không quên nghĩa là sức sống trong Mị chưa nguội tắt mà vẫn âm ỉ như hòn than trong lớp tro tàn .
Cũng trong đêm tình ấy, ngòi bút Tô Hoài còn tận mắt chứng kiến được hình ảnh một cô Mị làm mưa làm gió cùng men rượu cay đêm tình. Rượu đã đưa Mị từ cõi quên về với cõi nhớ, rượu và tiếng sáo ngất ngây gọi bạn tình đã làm Mị nhận ra “ Mị trẻ lắm. Mẹ còn trẻ. Mị muốn đi chơi ”. Khát vọng ấy, là khát vọng của con người yêu tự do, khát vọng tự do mãnh liệt. Và hành vi “ Mị cuốn lại tóc. Mị với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách … Mị rút thêm cái áo ” đã cho thấy sự cải tiến vượt bậc của Mị với bản năng sống mãnh liệt mặc kệ cả cường quyền, thần quyền. Ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột “ tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được đầu nữa ”. Nhưng Mị vẫn thản nhiên, Mị không hề biết mình đang bị trói, thậm chí còn khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị, Mị đã “ vùng bước tiến ”. Điều đó cho thấy, sức sống niềm tin trong Mị đã lớn dậy, nó đã ép chế cả nỗi đau về thể xác. Cũng có nghĩa là bóng ma thần quyền, cường quyền đã khuất phục trước sức sống ấy của Mị .
Sức sống mãnh liệt ấy lại một lần trỗi dậy trong đêm cứu A Phủ. Lúc đầu, Mị dửng dưng vô cảm trước cái chết cận kề của A Phủ. Nhưng sau đó, dòng nước mắt của A Phủ “ bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ” đã thức dậy lòng thương người trong Mị. Lòng thương người ấy đã làm sống dậy trong Mị sức phản kháng can đảm và mạnh mẽ. Nếu nói đêm tình mùa xuân là “ tia lửa nhỏ ” thì đêm cứu A Phủ là “ đám cháy lớn ”. Đám cháy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội ác cha con nhà thống lý “ Trời ơi chúng trói người ta đến chết thì thôi, chúng nó trói chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này. Chúng nó thật gian ác ”. Nhận thức ấy là nhận thức trọn vẹn bằng lí trí, bằng sự tỉnh táo. Từ nhận thức ấy mà sự làm mưa làm gió thứ hai của Mị mới thật là mong ước của người đọc. Mị đã cắt đứt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ vì theo Mị “ Ở đây thì chết mất ”. Hơn một lần trong truyện này Mị sợ chết. Lần đầu là thức dậy sau đêm bị trói nghĩ đến người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong căn nhà này “ Mị sợ quá. Mị cựa quậy xem mình còn sống hay là đã chết ”. Lần thứ hai là lúc Mị cắt đứt xong dây trói cho A Phủ. Như vậy, sợ chết là biểu lộ cao độ nhất của lòng ham sống. Đó là vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà văn vào năng lực vươn dậy của nhân vật .
Bên cạnh đó, nhà văn Tô Hoài còn nhìn thấy thực chất đẹp tươi của A Phủ, một chàng trai của núi rừng tự do. Anh yêu lao động, giỏi giang : “ biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo … ”. A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành niềm khát khao của bao cô gái trong làng “ Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà ”. Nhưng A Phủ nghèo nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên thực trạng khó khăn vất vả, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. “ Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm tình nhân ở những làng trong rừng ”. Trong cảnh xử kiện, dù bị đối xử tàn tệ nhưng A Phủ chỉ quỳ và “ im như tượng đá ” đó là bản tính gan góc rất đáng quý. Lúc được Mị cứu, dừ đã kiệt sức nhưng A Phủ đã “ quật sức vùng lên chạy ”. Phải chăng ở con người đó luôn tiềm ẩn lòng yêu đời, khát sống, khát tự do. Có lẽ thế cho nên mà khi sang Phiềng Sa, A Phủ đã nhanh gọn trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng Mị giải phóng quê nhà .
d. Biểu hiện sau cuối của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác. Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm hôm, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê nhà và biến hóa số phận của mình. Cũng qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca tụng phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt quan trọng là sức sống tiềm tàng và hành vi tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu so với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ .
3. Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm : Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, “ Vợ chồng A Phủ ” còn có những thành công xuất sắc đặc biệt quan trọng về phương diện thẩm mỹ và nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Miêu tả phong tục, tập quán, cảnh sắc vạn vật thiên nhiên sinh động. Nghệ thuật kể truyện sinh động, tự nhiên, mê hoặc. Ngôn ngữ tác phẩm rất tinh xảo, mang đậm sắc tố miền núi và thực sự đã để lại dấu ấn của Tô Hoài .
III. KẾT BÀI
Tóm lại, “Vợ chồng A Phủ” mang ý nghĩa tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người tiêu biểu là số phận của Mị và A Phủ. Chính vì những giá trị nhân văn cao đẹp ấy mà nửa thế kỷ trôi qua, tác phẩm của Tô Hoài ngày một thêm sáng giá.
— — — — – Hết — — — — — –
Bài mẫu số 1
Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ.
Bài làm:
Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trong việc sử dụng ngôn từ. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện thông qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người mà biểu hiện của giá trị nhân đạo là lòng thương người, sự cảm thông, bênh vực con người. Mỗi một tác phẩm thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh khác nhau. Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết được thể hiện ở phương diện tố cáo những thế lực độc ác. Đó là thế lực phong kiến miền núi lợi dụng chính sách cho vay nặng lão nhằm đọa đày người lương thiện. Trước tiên là ở Mị, nàng bị buộc vào vòng lẩn quẩn của cái nợ từ thời ba mẹ nàng. Còn ở A Phủ là khoản nợ 100 đồng bạc trắng. Chúng trói buộc cả hai con người đáng thương vào cuộc đời đau khổ.
Đến một ngày thì Mị không còn ý thức phản kháng nữa, bởi ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. “ Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa … ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi … Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như vậy. ” Rồi đến một ngày Mị bừng tỉnh, muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử nhìn thấy, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Mị đau đớn, nồng nàn tha thiết nhớ những ngày đã qua .
Còn A Phủ, anh bị đẩy vào bước đường ở nợ, “ đốt rừng, cày nương cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình dạt dẹo rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Để rồi khi anh để hổ bắt mất một con bò, Thống lí Pá Tra bắt trói anh vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai. Những việc làm tàn tệ ấy không chỉ hành hạ về mặt thể xác, nó còn bào mòn ý thức con người, mỗi ngày, mỗi ngày .
Tô Hoài còn bộc lộ giá trị nhân đạo ở chỗ, ông thương cảm những số phận xấu số như Mị và A Phủ. Nỗi niềm thương xót của ông không được nói ra thành lời, mà được biểu lộ trải qua những tiếng nức nở của những nhân vật. Mị được miêu tả khi nào “ cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. ”, cả cuộc sống cô có vẻ như chỉ quanh quẩn lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, khi nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Khi Mị bị A Sử trói vào cột, dòng ý thức của Mị trôi qua như những dòng nước mắt. “ Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. ” Mị sợ, Mị cựa quậy, xem mình còn sống còn sống hay chết .
Sợ chết là vẫn còn muốn sống, ý thức khát khao ấy như ánh sáng nhỏ nhoi khiến fan hâm mộ phải xúc động cho một số phận đau khổ. Ở A Phủ, đó là nỗi thương cảm dành cho chàng trai đã khổ từ lúc nhỏ. Ngày nhỏ, “ có người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng ”. Khi lưu lạc đến Hồng Ngài, A Phủ cũng thông thể lấy nổi vợ, chỉ vì anh không có cha mẹ, không có ruộng, không có bạc. Vận đen vẫn đi theo A Phủ, để rồi anh bị bắt nộp vạ một trăm bạc trắng, phải đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn sẽ ôm lấy Mị và A Phủ, đưa những con người lương thiện thoát ra khỏi phận đời đau khổ .
Cuối cùng, tác giả bộc lộ niềm trân trọng và đống ý với khát vọng được tự do, được niềm hạnh phúc của Mị và A Phủ. Niềm trân trọng ấy được bộc lộ thứ nhất ở ý thức phản kháng và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân. “ Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất kinh hoàng … Trong những làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ … tiếng trẻ con nô đùa … ” Mùa xuân ấy rộn ràng âm thanh và sắc tố, là tín hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân .
Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo : “ Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi … ” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “ Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi ”. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “ Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. ” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “ Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. ” Sức sống mãnh liệt còn biểu lộ can đảm và mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định hành động : Bỏ nhà đi theo game show. Mị làm đẹp cho bản thân mà không chú ý đến thái độ của A Sử, Mị hành vi thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự gian ác tàn khốc của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị .
Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Khi Mị nhìn thấy “ hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ”. Mị bỗng nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Mị đau đớn cho đời mình, và Mị cắt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị bừng tỉnh, vụt chạy ra. Rồi hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Bước chân của A Phủ và Mị là bước chân phản kháng, là bước chân tìm đến niềm hạnh phúc, vùng thoát khỏi bóng tối, đi đến một cuộc sống khác. Và bước chân ấy in đậm giá trị nhân đạo của Tô Hoài trong tác phẩm. Đó là bước chân ưng ý cho khát vọng được kiếm tìm niềm hạnh phúc .
Bên cạnh giá trị nhân đạo thâm thúy, tác phẩm còn mang đậm giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng không liên quan gì đến nhau về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn con người dân tộc bản địa bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh xảo, đượm sắc tố và phong vị dân tộc bản địa, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ .
Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho khát vọng tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.
————–Hết—————-
Bài mẫu số 2
Đề bài: Phần thân bài Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Bài làm :
Một tác phẩm có giá trị nhân đạo trước hết phải là một tác phẩm tập trung chuyên sâu tố cáo, vạch trần tội ác của những thế lực cậy chức cậy quyền mà đang chà đạp lên quyền sống của con người. Đồng thời tác phẩm đó cũng phải là một tác phẩm nhằm mục đích tập trung chuyên sâu ca tụng những phẩm chất tốt đẹp của con người. Song nhà văn trong tác phẩm cũng phải cảm thông và đồng cảm được tâm tư nguyện vọng cũng như những nguyện vọng và mơ ước của con người. Từ đó, giúp họ đấu tranh để giành được ước nguyện của mình. Tất cả điều đó có nghĩa là tác phẩm chỉ có giá trị nhân đạo khi giúp con người sống cho ra con người. ” Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của thẩm mỹ và nghệ thuật là tính nhân đạo “ ( Nguyên Ngọc ) .
Cảm hứng chủ yếu được biểu lộ hầu hết ở phần đầu, qua cuộc sống và số phận của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra. Đọc phần này, tất cả chúng ta xót xa cho Mị, cô gái Mèo đẹp người đẹp nết, giàu lòng yêu đời. Nhưng vì cha mẹ nghèo mà phải biến thành “ con dâu gạt nợ ” cho nhà thống lý Pá Tra .
Cuộc sống ở đây đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn trề sức sống và giàu mơ ước trở thành một con người khắc khổ, sống lầm lũi như “ con rùa nuôi trong xó cửa ”, thậm chí còn nhiều lúc Mị cảm thấy mình không bằng một con vật “ giờ đây Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi … con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn đc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong cái nhà này thì vùi đầu vào thao tác cả ngày cả đêm ” … Mị không chỉ bị bố con A Sử bóc lột về sức lao động mà còn bị chúng hủy hoại cả đời sống niềm tin, bị dập tắt mọi tâm lý cũng như nguyện vọng của cô gái trẻ. Đã mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Đã có lúc cô muốn tìm đến cái chết nhưng vì thương cha nên cô không hề chết, đành quay lại cuộc sống nô lệ để trả nợ cho cha .
Không chỉ có nhân vât Mị bị bóc lột mà cạnh bên đó có A Phủ. A Phủ vốn là một người trẻ tuổi tràn trề sức sống, khỏe mạnh, quả cảm, lao động giỏi vậy mà chỉ vì một lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành kẻ đi ở đợ cho nhà thống lí. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà thống lí A Phủ chịu biết bao sự đầy đọa cả về thể xác lẫn niềm tin. Để rồi trong khó khăn hai con người này đã gặp nhau ở sự đồng cảm thâm thúy, ở tình thương con người có cùng cảnh ngộ .
Giá trị nhân đạo của tác phẩm được biểu lộ đa phần qua cái nhìn đầy yêu thương của nhà văn khi viết về đồng bào những dân tộc bản địa miền núi. Những chàng trai cô gái Mèo là những người rất đẹp. Tuy nghèo nàn nhưng họ vẫn dũng mãnh, yêu đời, yêu lao động, khỏe mạnh. Có thể dễ thấy điều này qua những từ ngữ đầy ưu tiên Tô Hoài dành cho Mị và A Phủ “ Mị thổi sáo giỏi ”, “ Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác ”, “ Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị ”, còn A Phủ là chàng trai được nhiều người con gái ao ước “ A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa … ”, “ biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo ” .
Nhà văn còn tìm thấy bên trong họ những phẩm chất tốt đẹp. Mị thà phải lao động khó khăn vất vả hơn làm con dâu nhà giàu, A Phủ dám đánh lại con nhà giàu để bênh vực cho lẽ phải, không hề mếu máo van xin khi bị cha con thống lí đánh đập tàn ác. A Phủ vẫn là con người thực sự. Bên ngoài cái xác không hồn khô cứng của Mị, Tô Hoài nhận thấy tiềm tàng một sự phản kháng, một sức mạnh kì diệu, một ngọn lửa tự do vẫn còn âm ỉ. Và hơn thế nữa sự yêu thương nuôi nấng lẫn nhau giữa những người cùng khổ. Mị đã cứu A Phủ và cả hai đã cùng chạy trốn, cùng phụ thuộc nhau mà sống : “ A Phủ nói : “ Đi với tôi ”. “ Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống núi ”. Sức mạnh ở những con người ấy, nếu biết giác ngộ, biết tổ chức triển khai lại thì nó sẽ tạo nên sức mạnh diệu kì làm quân địch lo ngại. Hiểu được điều này, Tô Hoài đã đặt trọn niềm tin vào năng lực cách mạng của Mị và A Phủ .
Bên cạnh hình ảnh vợ chồng A Phủ thật đẹp chan chứa sự thương yêu cảm thông và tin tưởng, Tô Hoài bộc lộ thái độ căm ghét đối với chế độ thực dân phong kiến qua hình ảnh cha con ông thống lí Pá Tra. Lên án cái xấu để bảo vệ cái đẹp cũng là nhân đạo. Tô Hoài đã giúp người đọc hình dung được sự tàn ác, dã man, bản chất bóc lột của bọn thực dân phong kiến khi miêu tả xác thực và sinh động cuộc sống của cha con thống lí.
Xem thêm: Hôi Chân Nên Và Không Nên Ăn Gì
Giá trị nhân đạo của tác phẩm, thâm thúy nhất là sự trân trọng khát vọng tự do, niềm hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người nông dân cùng khổ. Ngòi bút Tô Hoài từng bước rọi sâu tò mò vào miền thân u của quốc tế nội tâm nhân vật, ông hiểu tâm tư nguyện vọng, nỗi niềm và khát vọng của họ. Không chỉ trân trọng khát vọng tự do của Mị và A Phủ mà còn ưng ý với ý thức phản kháng, đấu tranh của họ ; đồng thời vạch ra cho họ con đường giải phóng .
— — — — – Hết — — — — — –
Source: http://wp.ftn61.com
Category: Tin Tức
Để lại một bình luận